Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Lý Học Trong Giáo Lý Nguyên Thủy

11 Tháng Sáu 201410:03(Xem: 7767)
Tâm Lý Học Trong Giáo Lý Nguyên Thủy

TÂM LÝ HỌC
TRONG GIÁO LÝ NGUYÊN THỦY


Thích Viên Giác

I. DẪN NHẬP:

Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng. Đạo Phật chú trọng vào yếu tố tâm thức của con người bởi lẻ: một là con người là chủ nhân của chính nó, chứ nó không phải là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Hai là tâm thứctác dụng chi phối rất lớn đối với đời sống con ngườixã hội, vì tâm thứcđộng lực của ngôn ngữhành vi.

Triết học phương Tây thường đưa ra những lập luận như tâm có trước hay vật có trước, tinh thần là trên hết hay vật chấtquyết định.v..v.. Đó là những vấn đề của sự tranh luận, mà Đạo Phật không màng đến. Chú trọng khảo sát tâm lý, Đạo Phật nhận thức rằng tâm thức con người đóng vai trò chính trong việc kiến tạo đời sống hạnh phúc hay khổ đau, như tronh kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:" Trong các pháp,tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm để nói năng hay hành động thì quả báo đau khổ sẽ đi theo như bánh xe lăn theo con vật kéo xe. Ngược lại nếu đem tâm thanh tịnh để nói năng hay hành động thì quả tốt đẹp đi theo như bóng theo hình". Nói tâm dẫn đầu, tâm làm chủ không có nghĩa là chủ trương tâm có trước vật hay là tinh thần quyết định vật chất, như trong triết học phương Tây quan niệm, Đức Phật muốn nói đến động cơ của hiện tượng khổ đau hay hạnh phúc, tức là cái điều kiện chính của hiện tượng khổ vui. Đây là một kinh nghiệm thực tiển chứ không phải là một hệ thống triết lý.

Sự khác nhau của Tâm lý học Phật giáoTâm lý học phương Tây ở chổ phương Tây phân tích các hiện tượng tâm lý chứ không đi sâu vào bản chất của tâm lý, nhận thức giá trị của tâm lý, củng cố phát triển chúng, mục đíchthỏa mãn các nhu cầu tâm lý như là một phương thức thể hiện sự hạnh phúc.

Tâm lý học Phật giáo cũng phân tích các hiện tượng tâm lý nhưng đánh giá phân loại rồi định hướng chúng và vấn đề quan trọng là chuyển hóa tâm lý trở thành trong sạch để đạt đến mục đích hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc chân thật ấy phải là từ bỏ các tâm lý ô nhiễm, vốn thuộc về bản năng và gây đau khổ cho con người vàtha nhân . Như vậy Tâm lý học Phật giáo không thuần tuý là vấn đề tâm lý mà còn là vấn đề của luân lý học,đạo đức học và giải thoát học.

II. TÍNH THỰC TIỂN CỦA TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

Trong kinh Pháp Cú Phât dạy:

" Đừng làm các điều ác

Hãy làm các điều lành

Giữ tâm ý trong sạch

Là lời chư Phật dạy"

Lời Phật có 3 điều : một là không làm các điều ác, tức là không thực hiện các hành động về thân thể hay ngôn ngữ làm tổn hại đến mình và tha nhân, nghĩa là không làm tổn thương về thân thể, về tâm lý hay tình cảm… của con người . Mới nhìn qua ta thấy đây là vấn đề của luân lý nhưng nếu nhìn sâu ta sẽ thấy đây là vấn đề cơ bản của giải thoát .Làm điều ác xuất phát từ tâm lý ô nhiểm như tham, sân si… khi đình chỉ được điều ác thì có nghiã là sự ô nhiểm của tâm đã được kiểm soát.Chế ngự được tâm ác là bước đầu của lộ trình thoát khổ. Hai làlàm các điều lành ,xuất phát từ tâmtích cựcthanh tịnh,làm lành là vấn đề đạo đức, đạo đức cũng là cơ sở của giải thoát hay của hạnh phúc.Điều ác không được đoạn trừ,điều lành không được phát triển thì vấn đề thanh lọc tâm thức không thể thành tựu.

Tính thực tiển của Tâm lý học Phật giáo rất rõ qua phát biểu của điều thứ 3 là giữ tâm ý trong sạch, nguyên lý thứ 3 là hệ quả của hai nguyên lý : đình chỉ các điều ác và làm các điều lành. Không có hành vi ổn định con người không có tâm lý ổn định, ngược lại tâm lý không ổn định thì hành vi tiếp tục không ổn định. Như vậy Đức Phật không cho rằng tâm lý là tất cả mà tâm lý là nhân tố chính trong quá trình xây dựng hạnh phúc. Sự ức chế về mặt tâm lýđộng lực sản sinh khổ đau, ngược lại sự giải phóng áp lực của tâm là nguồn sống vui tươi giải thoát. Giữ tâm ý trong sạchkiểm soát các động lực ô nhiễm đừng để chúng tự do tàn phá và gây rối loạn và cũng là thiết lập một cơ chế cho hành vingôn ngữ được chuẩn mực. Một khi tâm lý được thanh tịnh hoàn toàn thì mọi áp lực của tâm lý sẽ hoàn toàn bị triệt tiêu, đó là sự giải thoát. Như vậy Tâm lý học Phật giáo không thuần lý,không tách biệt với những kinh nghiệm sống của con người.

III. TÂM LÝ HỌC TRONG GIÁO LÝ CƠ BẢN

1 . Tứ Diệu Đế

Tâm lý học Phật giáoTâm lý học ứng dụng, nhất là Tâm lý học được trình bày trong Kinh Tạng và qua các giáo lý căn bản. Giáo lý Tứ diệu đế được coi là giáo lý nền tảng của hệ thống tư tưởng Phật học, phân tích về tâm lý đã nói lên tính hai mặt của tâm lý : Một là tính ô nhiễm. Hai là tính thanh tịnh. Sau này các luận thư về tâm lý đều nêu bật hai tính nhiễm và tịnh của tâm lý một cách chi tiết. Tâm lý ô nhiễm là những hoạt động tâm lý đưa đến đau khổ phiền muộn, ngược lại tâm lý thanh tịnh thì đưa dến đời sống hạnh phúc an vui.

Khổ là một thực trạng của đời sống nhưng nổi khổ ấy không phải do tự nhiên mà có, không phải do ngẫu nhiên, không phải do thượng đế áp đặt như là một sự trừng phạt con người, mà khổ là kết quả của tâm lý ô nhiễm, nghĩa là sự khổ do con người tạo nên và phải gánh lấy .Năng lực tâm lý ô nhiễm được biểu hiện qua tâm lý tham lam, sân hậnsi mê, sự khổ hiện hữu do 3 loại tâm lý ô nhiễm này hiện hữu ; lập luận kế tiếp là sự khổ sẽ không có mặt nếu 3 loại tâm lý này không tồn tại. Vì vậy phân tích tâm lý qua giáo lý Tứ diệu đế để đưa đến một thái độ : đoạn trừ các tâm lý bất thiện và phát triển những tâm lý thiện. Ở đây cái không nên làm và cái nên làm được nêu rõ : mười điều ác là không nên làm và Bát chánh đạo là điều nên làm. Vậy Tâm lý học Phật giáo có sắc thái đạo đức học và giãi thoát học.

Tính hai mặt của tâm lý, đối ứng với hai mặt khổ đau và hạnh phúc của đời người, vì vậy Tứ diệu đế chú trọng đến đoạn trừ tâm ô nhiễm, tịnh hoá tâm thức, không đi sâu vào tâm lý mang tính trừu tượng như các luận thư về sau. Các trạng thái tâm lý thiền định được khảo sát là những kinh nghiệm thực tiển chứ không phải là các trạng thái tâm lý nằm ngoài khả năng của con người.

2 . Thập Nhị Nhân Duyên

Tâm lý được phân tích qua giáo lý 12 nhân duyên, nói đến quá trình tâm lý ô nhiễm, tức là khảo sát một cách sâu hơn bản chất của tâm ô nhiễm và đưa đến nhận định rằng cơ cấu của tâm thức con ngườiô nhiễm, nhận thức của con người phần lớn là sai lầm . Tâm lý được vận hành bởi động lựcvô minh, một trạng thái mê muội bản năng, nó chi phối mọi hoạt động của tâm lý ô nhiễm, nó như là nền tảng của nhận thức, hay nói cách khác nhận thứcvô minh.

Khổ là một cảm giác, cảm giác ấy bao gồm nhiều điều kiện, vô minh là một điều kiện trong những điều kiện. Vô minhđiều kiện nguồn của dòng sông tâm lý. Nói Vô minh sinh ra Hành là chưa đủ và dễ hiểu lầm rằng chu trình 12 nhân duyên chỉ diễn ra theo chiều thời gian, chiều dọc. Về mặt tâm lý, cảm thọ khổ không phải là kết quả của một quá trình tâm lý đơn giản mà là một sự tổng hợp đồng thời của các điều kiện khác nhau. Do vậy, Tâm lý trong 12 nhân duyên phải được phân tích theo chiều ngang, là chiều của không gian. Vô minhđiều kiện của Hành. Hành là lực vận động của tâm lývật lý ( thân hành, khẩu hành, ý hành ) nếu khôngđộng lực thì không có sự tồn tại, động lực tồn tại của chúng sinh được coi là Vô minh. Hành là biểu hiện của Vô minh, Vô minh nuôi dưỡng Hành và Hành làm cho Vô minh tăng sức mạnh. Tâm lý tồn tại nhờ có động lựcđộng lực ấy là động lực ô nhiễm, cho nên dòng sông tâm lýô nhiễm.

Thức là khả năng phản ánh thế giới hiện tượng, là khả năng phân biệt, là cái biết, và cái biết ấy cũng là biểu hiện của Vô minh. Cho nên các luận thư về sau đồng nhất Thức với Vô minh, và khi đề cập đến cái biết không bị Vô minh tác động thì dùng từ Trí ( Trí tuệ ) như nói :" Chuyển thức thành Trí" ( Chuyển 8 thức thành 4 trí ). Bản chất của thức là Vô minh và lực vận động của Hành làm cho Thức trở thành mê lầm. Vì vậy dưới sự biểu hiện của thức trở thành 2, đó là thế giới của chủ thể và đối tượng, diễn tiến tâm lý bao giờ cũng phải có chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, do vậy thế giới hiện tượngthế giới của tâm lý chứ không là thế giới khách quan. Chủ thể ở đây là Danh ( tinh thần ). Đối tượng ở đây là Sắc ( vật chất ), tinh thầnvật chất là biểu hiện của thức.Luận thư Duy Thức về sau dựa trên cơ sở này mà xây dựng học thuyết Duy Thức của mình. Cơ sở của chủ thể và đối tượng sinh khởi là 6 giác quan ( lục nhập ) tiếp xúc với đối tượng của chúng (xúc ), sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mới nhìn như là một sự tiếp xúc thuần vật lý, nhưng thực ra đây còn là một kích thích của tâm lý nữa.

Thọ là cảm giác, đây là một yếu tố tâm lý quan trọng vì cảm giác là sự biểu hiện rõ nét của tiến trình tâm lý mà ai cũng tự cảm nhận được. Thọ được trình bày trong Kinh Tạng có 3 loại : cảm thọ khó chịu, cảm thọ dễ chịu, và cảm thọ trung tính.Tuy nhiên Thọ trong tiến trình 12 nhân duyên nghiêng về khía cạnh dễ chịu ( lạc thọ, hỷ thọ ) có lẽ muốn nói đến bản năng hưởng thụ hay bản năng hướng đến hạnh phúc của đời sống con người. Hạnh phúc là nhu cầu tối hậu của con người, hạnh phúccon người tìm kiếm là sự cảm xúc dễ chịu của tâm lý thọ. Như đã nói, sự vận động của dòng sông tâm thức xuất phát từ động lực Vô minh nên mọi diễn biến đều nhuộm màu đen tối, ước vọng hạnh phúc hay cái được coi là hạnh phúc thực chất là mặt khác của khổ đau. Tiếp theo sau cảm giác vui sướng là sự hài lòng, sự thỏa mãn gọi là ái. Đối với tiến trình tâm lý thì ái là tâm lý biểu hiện mạnh mẽ và kết thúc chu trình của tâm thức, nó trở thành một năng lực tổng hợp để tạo thành một tác dụng trong tâm thức hay trong hành động của con người và tất nhiên Vô minh được biểu hiện trong ái là mạnh nhất .Trong 12 nhân duyên A? được coi là then chốt cho vòng tròn sinh tử .

Thủ là sự vướng mắc, sự nắm bắt, sự giữ gìn bảo thủ hay sự ghi nhận một kinh nghiệm, tâm lý này chỉ là một hệ quả của A? mà thôi . Phân tích các yếu tố tâm lý trong 12 nhân duyên có vẻ như là một diễn biến tâm lý theo thứ tự và có thời gian nhưng trên thực tế thì chúng diễn ra rất nhanh gần như đồng thời, có thể nói trong một ý niệm là có đủ 12 nhân duyên . Tâm lý chấp thủ là sự biểu hiện của A? hay là của sự thỏa mãn, đây là yếu tố tâm lý mang tính ích kỷ mà về sau luận thư Duy Thức phân tích sâu hơn căn nguyên của chúng và thức Mạt na là cội nguồn của sự chấp thủ này. Sự chấp thủ, về mặt nổi là hệ quả của A? nhưng nó cũng là biểu hiện của động lực Vô minh, nó hình thành một bản năng sinh tồnbản năng hưởng thụ, bảo vệ cái hạnh phúc từ chối cái khổ đau.

Tóm lại, xuất phát từ sự không thấy, không biết rõ (Vô minh) về chính mình, về tha nhân và về thế giới mà trong đó mình sống. Trên cơ sở không thấy rõ, và thái độ tự vệ con người nhận thức thế giới chung quanh như là đối tượng tách rời với chính mình. Do tự vệ con người xô đẩy các đối tượng bất lợi, không vừa ý càng xa càng tốt và nắm bắt các đối tượng có lợi và vừa ý càng chặt càng hay. Do vậy con người liên tục xô đẩy và nắm bắt suốt cuộc đời của mình một cách khốn khổ, thế giới như vậy như là một biển khổ mênh mông.Khi thương một người thì bạn luôn cố gắng tạo mọi điều kiện để tiếp cận người ấy, dụ dỗchinh phục người ấy. Vì bạn cho rằng đây là đối tượng đem đến cho mình niềm vui và hạnh phúc, bạn không muốn ai chia xẻ tình thương của người ấy, người ấy là của bạn, bạn phải giữ gìn bảo vệ cái của bạn. Như vậy có hai vấn đề xảy ra: Một là bạn phải đấu tranh, xô đẩy những ai và những gì có khả năng cướp mất đối tượng của bạn,do vậy bạn có thể chống cả thế giới. Hai là bạn phải đấu tranh với tính khí của người ấy vốn luôn luôn muốn thoát ra ngoài sự trói buộc của bạn. Ba là bạn phải đấu tranh với chính bản thân của mình, nghiã là về tâm lý bạn vẫn bị những cảm giác mất mác, chán chường làm cho niềm vui của bạn bị pha loảng, chúng ta sẽ phải tiếp tục chịu đựng sự rối loạn bất an còn niềm hạnh phúc thì vẫn chập chờn phía trước, như vậy tâm lý luôn bị khủng hoảng, luôn bị áp lực. Sự giãi phóng áp lực tâm lýđiều kiện của hạnh phúc hoàn toàn, là mục tiêu của mọi đường lối tu tập.

3. Ngũ Uẩn

Phân tích tâm lý theo giáo lý 5 uẩn, chúng ta nhận thấy con người được phân tích thành năm lĩnh vực, hay nói cách khác con người là hợp thể của 5 yếu tố: yếu tố vật lýyếu tố tâm lý. Yếu tố tâm lý có 4 khía cạnh : cảm giác, tri giác, ý chínhận thức. Có nhiều cách phân tích về 4 yếu tố tâm lý này, tuỳ theo cái nhìn của các trường phái tư tưởng Phật giáo, có nơi phân tích tâm lý theo chiều dọc thời gian như cảm giác đến trước rồi tri giác, rồi các xử lý của ý chí, rồi đến sự ghi nhậngiữ gìn trong tâm thức chiều sâu. Có nơi phân tích theo chiều không gian cảm giác phần cạn, tri giác sâu hơn ý chí và thức đi vào vi tế sâu sắc hơn nó ẩn kín bên trong.

Trước hết chúng ta thấy rằng tâm lývật lý là mối quan hệ bất khả phân, điều này xuyên suốt lịch sử Tâm lý học Phật giáo bất cứ thời kỳ và trường phái nào, sắc pháp bao giờ cũng hiện hữu bên cạnh tâm pháp. Sắc uẩn bao gồm mọi yếu tố vật lý thân thể và môi trường sống. Diễn biến tâm lý được phân tích là những nhóm tâm lý cùng tính chất: nhóm cảm giác bao gồm những cảm xúc bởi thế giới bên ngoài và thế giới bên trong, nếu nhìn riêng lẽ thì cảm giác thuần tuý không đưa đến một tác dụng tích cực nào, chỉ đơn giản là một phản ứngđiều kiện, nhưng nếu nhìn cảm giác trong mối quan hệ chung thì trong cảm giác có đầy đủ 4 yếu tố vật lý, tri giác, ý chí, và nhận thức. Nếu như vậy thì cảm giác có một tác dụng tích cực đối với dòng sông tâm thức con người, thậm chí nó đóng vai trò chủ yếu trong đời sống con người, vì con người sống với mục đích hướng đến cảm giác hạnh phúc.

Nhóm Tri giác bao gồm những nhận biết các đối tượng bên ngoài hay bên trong chính là những kinh nghiệm, nếu khôngkinh nghiệm con người sẽ không nhận ra được cái gì cả. Nhận biết là sự đối chiếu những tướng trạng đã có với cái đang có, nếu đặt Tri giác trong mối quan hệ chung thì có lúc Tri giác có mặt trước cảm giác, và có lúc thì sau cảm giác. Ví dụ, như khi thấy ấm nước bốc hơi biết là nước sôi một cảm giác hài lòng vì sẽ có tách trà nóng, đó gọi là Tri giác đến trước; còn nếu như ta sờ tay ấm nước cảm giác nóng và động của ấm nước làm ta khó chịu và ta biết nước sắp sôi, đây là trường hợp cảm giác có trước. Nếu chỉ là tri giác thuần tuý thì chúng không đưa đến một tác dụng tích cực nào, nếu chúng liên hệ với các yếu tố tâm lý khác thì mới đủ khả năng tạo nên một tác dụng (tạo nghiệp).

Trong Tâm lý học phổ thông cảm giáctri giác được gọi là nhận thức cảm tính và cho rằng Tri giácnhận thức cao hơn cảm giác. Giáo lý 5 uẩn cho rằng trong mối quan hệ của chúng, cảm giáctri giác dựa vào nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể mà chúng có tác dụng mạnh hay yếu.

Yếu tố tâm lý thứ 3 là Hành, tức là hoạt động của tư duy, bao gồm các hoạt động tâm lý mạnh mẽ, xác định,có tính chủ ý, tính quyết định như các tâm lý ham muốn, giận dữ, thương yêu, ghét bỏ... những tâm lý này có năng lực để tạo ra hậu quả, tức là tạo nghiệp. Hành là loại tâm lýtác dụng thúc đẩy tạo nên hành vingôn ngữ, do vậy trong kinh Phật dạy Hành có tâm hành, khẩu hành, và thân hành. Nếu nói một cách dễ hiểu thì hành là những tâm lý tính toán, quyết địnhtính cách ý chí, nghĩa là vẫn ở phạm vi mặt nổi của tâm lý. Tuy nhiên nếu nói một cách tế nhị thì Hành là động lực sâu kín, là sự vận động của hệ thống tâm thức theo xu hướngtính chất đã được tích luỹ. Do sự vận động của tâm Hành sâu kín mà ta có những biểu hiện nằm ngoài kiểm soát của ý thức, chúng thuộc bản năng và tự phát. Tuỳ thuộc vào tính chất của Hành mà con người có những biểu hiện khác nhau; mỗi người là mỗi thế giới, chúng ta rất khó phán đoán động cơ của hành vi con người, ví dụ như một người có một nghĩa cử cao đẹp như cứu giúp một người khốn khổ động cơ mà anh ta làm điều tốt ấy đôi khi chỉ là do xúc động bởi một ánh mắt của đối tượng. Tại sao có sự xúc động ấy ? Đó là tác dụng sâu kín của Hành.

Yếu tố tâm lý thứ 4 là thức. Thúc là khả năng phản ánh mọi đối tượng bên ngoài hay bên trong, chức năng của thức là nhận ra sự có mặt của đối tượn, là nền tảng chung cho mọi hoạt động tâm lý. Những tâm lý thuộc về cảm giác, tri giác, ý chí đều nương vào nền tảng là thức. Nói cách khác Thúc là bản thể tâm lý còn cảm giác , tri giác, ý chí... là hiện tượng tâm lý . Sau này các luận thư tâm lý học Phật giáo gọi thức là Tâm vương và các hiện tượng tâm lýtâm sở . Thức phải có mặt thì các tâm lý khác mới có cở hoạt động, mối quan hệ giữa thức và những hiện tượng tâm lý khác là bất khả phân ly. Chức năng của thức tương tự như một tấm kiếng phản ánh tất cả những đối tượng đi ngang qua nó, tuy vậy không nên hiểu thức là một thực thể cứng đơ như tấm kiếng, mà thức thì rất sinh động vì mối tương tác giữa các diễn biến tâm lý.

Phần tâm lý được phân tích thành 4 phần là một cách chia để dễ khảo sát, rất gượng ép và dễ hiểu lầm rằng mỗi phần có một ranh giới riêng. Thực ra khi một đối tượng được nhận thức thì mọi tâm lý đều sinh khởi, tuỳ theo sự kích thích của đối tượng mạnh hay yếu và tuỳ theo sự nhạy cảm của các quan năng mà nhận thứcnhận thức thuần tuý hay là nhận thứctác dụng thúc đẩy hành vi.

Phân tích tâm lý của con người dựa trên nền tảng, một năng lực Thức phổ quát, là một phát hiện độc đáo trong lịch sử tâm lý học, đó là cơ sở để các luận thư tâm lý học Phật giáo về sau phát triển và giải quyết các vấn đề nhu yếu của tâm thức.

Tóm lại phân tích tâm lý qua giáo lý 5 uẩn cho thấy 2 mặt của tâm lý: bản thểhiện tượng. Thấy rõ các mối quan hệ bất khả phân của các hiện tượng tâm lý. Mặt khác sự bất khả phân giữa tâm lývật lý, nội dung hoạt động tâm lý không có một chủ thể độc lập, cố định, giá trị riêng tư nào. Do vậy con người là một tổng hợp vủa các hiện tượng tâm lý , vật lý. Không phải tồn tại như một đối tượng của tư duy, khái niệm mà là của thực tại vô thường , khổ, vô ngã.

IV. KẾT LUẬN

Tâm lý học Phật giáo qua giáo lý Nguyên thuỷ là tâm lý học ứng dụng vào thực tiển của đời sống chứ không phải là những lý luận khô khan,siêu hình, mục đích là:

- Cung cấp phương pháp nhận thức về con người chính mình.

- Tìm cách thay đổi tình trạng đau khổ do rối loạn tâm lý .

- Giúp con người định hướng tư duy và hành động để đem đến sự chân thiện cho đời sống .

- Giúp con người đi sâu vào đời sống nội tâm để giãi phóng những ức chế tâm lý, những kết tụ của các năng lượng khổ đau và vô minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9321)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7966)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8950)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7565)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8223)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9226)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9318)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 9005)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7743)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11326)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8808)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8249)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8136)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8120)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6357)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7747)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7554)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7528)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8537)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8049)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8445)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11269)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8422)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7558)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7161)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8431)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6297)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8371)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9403)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8370)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9344)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 7973)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7172)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9907)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15038)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9413)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7929)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7923)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 7974)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7910)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 7978)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7691)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8698)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7930)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8442)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10446)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 8000)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 10971)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8691)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7827)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7504)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8424)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 7984)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8496)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7937)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7924)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7116)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8329)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
(Xem: 8124)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8223)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant