Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuẩn Mực Đạo Đức Của Phật Giáo

12 Tháng Sáu 201413:27(Xem: 10407)
Chuẩn Mực Đạo Đức Của Phật Giáo

CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA PHẬT GIÁO

Phước Tâm dịch

blankĐạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, có khả năng duy trì kỷ cương quốc gia, khiến quốc gia không rối loạn, bảo vệ an toàn cho đời sống nhân dân, xã hội. Lễ giáoTrung Quốc xưa kia lập ra, gọi là “tứ duy bát đức”(1), nhân luân “ngũ thường”, đều là kỳ vọng xây dựng nên một quốc gia thái bình thịnh thế “trung thứ nhân nghĩa” và phép tắc trật tự.

Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội, như Phật đà từng hướng dẫn phép trị nước cho các vị vua Tần-bà-sa-la, Ba-tư-nặc, A-xà-thế…, đó là “đạo đức chính trị”; Ngài giảng dạy và truyền thụ những nguyên tắc sống chung trong cùng một gia đình cho Thiện Sinh Tử, Ngọc Da Nữ, chính là “đạo đức gia đình”; Phật đà từng dùng thi kệ khuyên dạy cách tiêu xài đồng tiền, đại để nói rằng: vốn liếng, của cải kiếm được của mình nên chia làm bốn phần, một phần gọi là phí dụng hàng ngày trong gia đình, một phần dự trữ để dự phòng nhỡ có xảy ra bất trắc gì, một phần giúp đỡ bà con quyến thuộc hay những thân hữu, một phần bố thí vun đắp phước đức”, chỉ dẫn người đời sử dụng đồng tiền đúng đắn, chính là “đạo đức của cải”.

Chuẩn mực đạo đức Phật giáo, bao hàm các quy phạm luân lý của thế gian, cả đến tu hành thánh hiền xuất thế gian. Nay lược bàn chuẩn mực đạo đức Phật giáo như sau:

Ngũ giới, Thập thiện

Ngũ giới của Phật giáo là “đạo đức căn bản” làm người, nên phải tuân thủ giữ gìn; Thập thiện là “đạo đức tăng thượng” tịnh hóa nội tâm, thăng hoa nhân cách; nhân quả nghiệp báo là “đạo đức thiện ác” bất biến của thế gian. Hình phạt nghiêm khắc, cố nhiên có thể nhận được tác dụng tích cực nhất thời, nhưng vốn không phải là cách làm rốt ráo. Phật giáo lấy Ngũ giới, Thập thiện xem là chuẩn mực đạo đức nhân bản, khởi xướng “chớ làm các việc xấu, hãy làm những việc tốt”, không xâm phạm thân thể, tiền của, danh dự, tôn nghiêm của người khác, sửa đổi triệt để lòng người, khiến nhân luân cương thườngtrật tự, làm cho nếp sống xã hội trở nên lương thiện. Ngũ giới, Thập thiện chính là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Giúp đời lợi người

Chư Phật, Bồ tát tùy loại ứng hóa, lợi ích chúng sinh, tinh thần giúp đời lợi người, chính là chuẩn mực phù hợp với Phật giáo. Ở mọi ngành nghề cũng cần có lòng cứu đời giúp người, giống như thầy/cô giáo cần phảitrách nhiệm “giảng dạy, truyền đạt kiến thức, giải thích các vấn đề nghi hoặc”; nhân viên điều dưỡng cần có đạo đức cứu đời “thị bệnh như thân, cứu nhân nhất mạng”; công nhân cần tích cực làm việc, lấy sản xuất báo ơn quốc gia; thương nhân cần mua bán kinh doanh hợp pháp, không được lấy của cải không phải của mình; quân nhân vì bảo vệ sự an toàn cho nhân dân toàn quốc, phải anh dũng chiến đấu, chống lại sự xâm lược của kẻ thù. Cũng chính là, mỗi một người, có thể xả bỏ sự cố chấp ích kỷ, noi theo tinh thần cổ đức tiên hiền, tức “lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ”, hay tinh thần Bồ tát “nếu còn một người chưa độ, thì bản thân nhất định không được lẩn trốn”, để giúp đời lợi người. Giúp đời lợi người chính là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Bát nhã không tuệ

Bồ tát lấy Lục độ(2) làm chiếc thuyền để tự độ và độ người. Điều mà người ta gọi là “Ngũ độ(3) như mù, Bát nhã như mắt sáng”, nghĩa là, chúng ta nếu khôngbát nhã trí tuệ nhạy bén, thì cho dù có hành trì (Ngũ độ) bao nhiêu, vẫn là nằm trong vòng phước báo hữu vi không sao tránh khỏi năm biểu hiện của tướng suy(4), không phải là con đường giải thoát niết bàn chân chính. Ví dụ, sự bố thí của Phật giáo là muốn con người học tập buông bỏ tư niệm bủn xỉn, keo kiệt, nhưng nơi đến bố thí, cần phải thanh tịnh, không được vi phạm pháp luật nhà nước, đồng thời người bố thí tâm không kiêu căng, ngạo mạn, người được nhận phải biết cám ơn, là sự bố thí thanh tịnh “năng thí, sở thí và vật thí, vô sở đắc - không mong cầu trong tam thế - quá khứ, hiện tại và tương lai; tâm tối thắngchúng ta an trú, cúng dường tất cả mười phương Phật”. Ngoài ra, trì giới không sát sinh, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp, không uống rượu, v.v… cố nhiên là giáo pháp của Phật (Phật pháp), nhưng “giết một cứu một trăm”(5) của Phật đà, “uống rượu cứu người”(6) của phu nhân Mạt-lợi, chuyện “xử lý (tình huống) ở rể”(7) của Hòa thượng Nhất Hưu, “đốt Phật sưởi ấm”(8) của Thiền sư Đan Hà, “dạy tên trộm cách ăn trộm”(9) của Thiền sư Thạch Ốc, v.v…, cũng đều là Phật pháp. Từ bi dịu dàng cũng là Phật pháp, nhưng những tiếng va đập chát chúa của gậy, tiếng quát mắng, tiếng nện gõ của chiếc kìm, khiến cho học tăng tiệt đoạn vọng tưởng (mơ mộng hão huyền), nhận biết bản lai diện mục (diện mạo vốn có), cũng là từ bi. Vì vậy, Phật pháp, có lúc không phải là Phật pháp; không phải là Phật pháp, có lúc lại là Phật pháp. “Bát nhã không tuệ” của Bồ tát, có khả năng làm cho chúng ta bố thí mà vẫn hỷ xả không nghĩ đến sự bố thí, trì giớikhông chấp vào giới tướng, nhẫn nhục xa rời ngã chấp, tinh tiến không sinh kiêu mạn, tu thiền không lưu luyến định cảnh.

Kinh Kim Cang nói: “Tâm Bồ tát hành bố thí mà không trụ ở pháp, như người có mắt, nhật quang chiếu rọi, thấy muôn vàn sắc màu”. Đã có Bát nhã không tuệ tợ đôi mắt sáng rồi, thì việc ứng xử tự nhiênthể không còn tâm so sánh “bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, bạn sướng tôi khổ” nữa; Bát nhã không tuệ cũng giống như “từ mẫu” (người mẹ hiền), đối đãi tất cả chúng sinh như những đứa con ruột thịt, đối với những khó khăn gian khổ ấy tự nhiên có sự đồng cảm không lìa xa; Bát nhã cũng giống như “ánh sáng” trong căn phòng tăm tối, có thể chiếu soi màn đêm vô minh đang cư ngụ trong con tim diệu vợi của chúng ta, làm tan biến những đối xử phân biệt, tâm không bị khổ lạc làm nao núng, chuyển phàm tình (tình cảm thế gian) chấp trước thành tình yêu rộng lớn (từ bi) đối với chúng sinh. Bát nhã có khả năng tịnh hóa tư tưởng của chúng ta, nâng cao đạo đức của chúng ta, một khi có Bát nhã không tuệ, thì vui-khổ là đồng thể, sạch-nhơ là nhất như, giàu-nghèo có thể tự tại, có-không có thể bình đẳng, như trong kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Tâm niệm luôn biết đủ, an vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp”. Hàng phục tâm ấy (kỳ tâm) như thế bằng Bát nhã không tuệ, “tất cả muôn loài chúng sinh, đều khiến đi vào Vô dư Niết bàn mà diệt độ”. Bát nhã không tuệ đích thực là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Chuẩn mực đạo đức của Phật giáo, lấy quy tắc (quy phạm) Ngũ giới Thập thiện, hoàn thiện nhân cách; lấy việc cứu đời giúp người của thánh hiền, để thăng hoa đạo đức; lấy Bát nhã không tuệ của Bồ tát, để minh tâm kiến tánh. Thêm nữa, trong cuộc sống hiện thực, tam học giới định tuệ, bốn loại chính niệm, tám loại chính đạo, cũng là lương dược có khả năng trị liệu căn bệnh thâm căn cố đế tham lamsân hận của chúng ta, có khả năng khiến cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, đạo đức đạt đến viên mãn. Luận một cách ngắn gọn rằng, phàm xuất phát tình yêu rộng lớn từ lợi ích cộng đồng, đồng thời không đi ngược với lễ pháp (phép tắc, kỷ cương) của thế giantinh thần đại thừa nhiêu ích hữu tình của Bồ tát, thì đều phù hợp với chuẩn mực đạo đức của Phật giáo. Ví dụ: Bố thí kết duyên, không nhớ nghĩ điều ác cũ, hổ thẹn mỹ đức, giữ gìn lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), “bạn chưa mời mà tự đến”(10), phương tiện quyền xảo, lợi lạc hữu tình (làm lợi ích cho chúng sinh), phổ đồng cúng dường (cúng dường, bố thí rộng khắp cho tất cả chúng sinh), bốn ơn phải báo đáp(11), hoằng pháp lợi sinh, tôn trọng bao dung, tâm ý dịu dàng ôn hòa, ái ngữ ngợi khen, giữ gìn chính niệm, v.v..., đều là chuẩn mực đạo đức thanh tịnh thiện mỹ của Phật giáo. Ngoài ra, học tập đại từ, đại bi, đại trí, đại nguyện, đại hạnh của Phật và Bồ tát, phát Bồ đề tâm, không quăng bỏ sự cứu độ chúng sinh đang trôi lăn trong ngũ nghịch(12) thập ác(13), đây chính là đạo đức viên mãn, cứu cánh nhất của Phật giáo. 

(Theo Tinh Vân, Phật học giáo khoa thư, Nxb. Từ Thư Thượng Hải, 2008, tr.97-99)

---------------

Các chú thích 5, 6, 7, 8 và 9 là của nguyên tác. Phần chú thích còn lại, là do người dịch thêm vào.

(1) Tứ duy, chỉ: lễ, nghĩa, liêm và sỉ; Bát đức, chỉ: trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa và bình.

(2) Lục độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và bát nhã/trí tuệ.

(3) Ngũ độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiếnthiền định

(4) Thiên nhân lúc sắp chết, thì hiện ra năm tướng suy. Về thuật ngữ này, trong kinh luận Phật giáo thấy có nhiều thuyết khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ dựa vào kinh Niết bàn liệt kê năm tướng suy đó như sau: Một là, y thường cấu nhị, tức y phục dơ bẩn; hai là, đầu thượng hoa ủy, tức cái mũ hoa trên đầu khô héo; ba là, thân thể xú uế, tức thân thể có mùi hôi; bốn là dịch hạ hãn xuất, tức nách chảy mồ hôi; năm là, bất lạc bổn tọa, tức chỗ ngồi không vui.

(5) Xem Sát thân tế cổ kinh trong Lục độ tập kinh.

(6) Xem Chân chính đích giới luật trong “Tu tiễn sinh mệnh đích hoang vu”, Thời báo Văn hóa xuất bản, tr.140,

(7) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 2), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.84.

(8) Xem Cảnh đức truyền đăng lục, quyển 14 in trong Thiền tạng thuộc Phật Quang đại tạng kinh, tr.733.

(9) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 1), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.160.

(10) Nguyên văn là Bất thỉnh chi hữu - 不請之友, ý ví như chư Bồ tát, chúng sinh khi gặp nạn chưa kịp khẩn cầu, nhưng các Ngài vì lòng thương yêu rộng lớn mà đến hóa độ, trao truyền thiện pháp.

(11) Chúng ta sinh tồnthế gian này, những ơn đứcchúng ta tiếp nhận, chủ yếu có bốn loại: ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn quốc gia, và ơn Tam bảo, hợp lại gọi chung là Tứ ân tổng báo, tức bốn ơn đó cần báo đáp.

(12) Ngũ nghịch là tội nặng nhất trong tất cả ác nghiệp của Phật giáo. Nghịch, nghĩa là trái với luân thường đạo lý, tội cực lớn. Năm tội ấy được Phật liệt kê như sau: Giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hoại hòa hợp Tăng. Người mắc năm tội này, sẽ rơi vào Vô gián địa ngục (cũng gọi là Địa ngục A-tỳ).

(13) Thập ác gồm: (1) sát sinh, (2) thâu đạo (trộm cắp), (3) tà dâm, (4) vọng ngữ, (5) lưỡng thiệt, tức nói lời ly gián, lời không có tính xây dựng, (6) ác khẩu, tức ác ngữ, ác mạ, chửi bới, (7) ỷ ngữ, tức lời tạp uế, (8) tham dục, (9) sân nhuế (sân hận/căm ghét), (10) tà kiến, tức cái nhìn lệch lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9321)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7966)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8950)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7565)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8223)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9226)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9318)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 9006)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7743)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11327)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8810)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8249)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8136)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8120)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6357)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7747)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7554)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7528)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8537)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8049)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8445)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11270)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8422)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7558)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7161)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8431)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6298)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8371)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9403)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8370)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9344)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 7973)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7172)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9907)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15038)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9413)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7930)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7923)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 7974)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7910)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 7978)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7691)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8698)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7930)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8442)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10446)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 8000)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 10973)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8691)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7827)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7504)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8424)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 7984)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8496)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7937)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7924)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7116)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8329)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
(Xem: 8124)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8223)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant