Bố thí là một trong những hạnh lànhcăn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày. Bố thí là đem cho, cho những cái mình có, cho những thứ mà chúng sanh (người và vật) cần, cho đi một cách trân trọng và vui vẻ. Người thực hành bố thí hẳn nhiên có phước báo lớn. Ngay cả những người không có gì để cho, chỉ có một tấm lòng hân hoan với hạnh lành của người khác thôi (tùy hỷ thí) mà vẫn được phước báotràn trề.
Bố thí có nhiều cung bậc, tâm nguyện nhưng quan trọng là trước, trong và sau khi bố thí tất cả đều hoan hỷ, an vui. Vì chúng sanh đáng thương mà bố thí tuy là việc khó nhưng vẫn dễ làm. Nhưng khi chúng sanh không dễ thương, ít thiện cảm liệu chúng ta còn hoan hỷbố thí được không? Có khi nào chúng ta bình tâm để thấy rằng mình bố thí cho chúng sanh hay có phần cho chính mình, vì chính mình? Nên chữ “cho” trong đời thực có đến năm bảy đường. Vì vậy, người con Phật hãy đem cho với tâm bình đẳng và rộng rãi thì phước báo mới đủ đầy, công đức mới vô lượng.
Kinh Tăng nhất A-hàm, Phật dạy về bố thíbình đẳng và rộng khắp:
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ trưởng giả A-na-bân-trì liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên, Thế Tôn bảo rằng:
- Thế nào Trưởng giả, Ông có thường bố thí cho người nghèo thiếu không?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Con hằng bố thí cho người nghèo thiếu, bố thírộng rãi tại bốn cửa thành, còn ở tại nhà cấp thứ cần thiết cho người. Bạch Thế Tôn, có lúc con nghĩ rằng muốn bố thí cho tất cả loài chim rừng, heo chó. Con cũng không nghĩ: đây nên cho, đây không nên cho, cũng không nghĩ: đây nên cho nhiều, đây nên cho ít. Con hằng nghĩ: tất cả chúng sanh đều do ăn mà còn tính mạng, có ăn thì sống, không ăn thì chết.
Thế Tôn bảo rằng:
- Lành thay, lành thay! Này Trưởng giả! Ông đã đem lòng Bồ-tát, chuyên ròng một ý mà bố thírộng rãi. Đúng là các chúng sanh đều do ăn mà được sống, không ăn liền chết. Này Trưởng giả, Ông sẽ thâu hoạch được quả báo lớn, được tiếng tăm lớn. Đã có quả báo lớn, tiếng đồnmười phương, lại được pháp vịcam lồ. Sở dĩ như thế là vì Bồ-tát hằng đem tâm bình đẳng mà bố thí, chuyên ròng một lòng nghĩ nhớ các loài chúng sanh, họ do ăn mà còn, có ăn liền được cứu tế, không ăn liền chết. Đó là, này Trưởng giả, Bồ-tát tâm được an ổn mà bố thírộng rãi.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Hãy nên bố thí khắp
Trọn không tâm lẫn tiếc
Ắt sẽ gặp bạn lành
Được giúp đến bờ kia.
Thế nên, Trưởng giả, hãy đem tâm bình đẳng mà rộng bố thí. Như thế, Trưởng giả, hãy học điều này!
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Hộ tâm, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.113)
Mới hay, khi mới phát tâmtu tập, nhất là thực thi hạnh lànhbố thí, tất nhiên cần “phân biệt” cho cái gì, cho như thế nào, ai đáng được cho… Cái thấy biết này rất cần nhưng nó chỉ là thức tri, toan tính của phàm tình. Nhưng sau một thời gianthực hành bố thí, mình phải nâng tâm trí và hạnh nguyện của mình lên một tầm cao mới. Dù thấy biết rõ hết tất cả nhưng vẫn “vô phân biệt”, hoan hỷ cho đi rất nhẹ nhàng, thậm chí cho hết những gì mình đang có; cho hết chỉ đơn giản vì quá thương, điều mà chỉ xảy ra khi trong tâm mình bi trí đã đong đầy.
Khi từ bi và trí tuệ đều tròn đủ và hòa quyện với nhau không thể tách rời, Bồ-tát hướng tâm nguyện vào đâu thì nơi ấy trở nên nhiệm mầu. Thế nên, tập cho đi những cái bên ngoài để rồi “cho” cả chấp ngã bên trong, cho người mà cũng là cho mình, mình và người đều an vui, đều sang đến bờ kia (đáo bỉ ngạn, ba-la-mật).
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ),
người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục,
người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời,
và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
Tạng Quang Minh là con đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiệnthần thông để du hành trong vũ trụ.
Tâm người bị ba thứ độc tốtrói buộc, chính vì vậychúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim CươngBát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
Năm giới và mười điều thiện được xem là cơ sở thiết lậpđạo đứcPhật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
Ba truyền thốngPhật giáoẤn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.