Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ứng Dụng Lý Nhân Duyên

11 Tháng Bảy 201421:40(Xem: 7949)
Ứng Dụng Lý Nhân Duyên

ỨNG DỤNG LÝ NHÂN DUYÊN
ĐỂ THẤU TRIỆT LỜI PHẬT DẠY

Thích Đạt Ma Phổ Giác

hoa_vangĐức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này. Nhờ suy xét, quán chiếutìm tòi, chúng ta hiểu được lẽ thật đó nên sẽ bớt dính mắc, chấp trước vào thân tâm này là ta và của ta.

Bản chất của nước là tánh ướt, có thể thay hình đổi dạng, chuyển biến tùy theo thời gian, hoàn cảnh. Nếu chúng ta để nước với nhiệt độ trung bình, không quá nóng cũng không quá lạnh thì trước sau nó vẫn là nước. Nhưng nếu chúng ta để nó vào tủ lạnh thì nước sẽ thành khối nước đá đông đặc. Nếu chúng ta muốn nước bốc thành hơi thì phải dùng lửa đốt để tạo duyên nóng cho nó bốc hơi. Như vậy, nước ấy không cố định là nước mãi mãi, khi ở thể lỏng thì gọi là nước, khi ở thể hơi thì gọi là mây, khi ở thể đặc thì gọi là đông lạnh, nhưng bản chất của nước vẫn là tánh ướt.

Định nghĩa: Nhân là nguyên nhânnăng lực phát sinh. Duyên là phần phụ để hỗ trợ cho nhân phát sinh ra tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này. Nhân duyên được hình thành theo nguyên lý “cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái cái diệt”, khi đủ duyên thì mọi vật hình thành, khi hết duyên thì sự vật ấy sẽ không còn. Chúng ta hãy thử suy ngẫm về cái nhà! Cái nhà không tự là cái nhà mà phải có nhiều vật dụng như gỗ, đinh, sắt, gạch, cát, xi măng, người thợ mộc, thợ hồ và nhiều phương tiện khác hợp lại mới tạm gọi là cái nhà.

Con người cũng vậy, thân này do bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp lại mới hình thành. Vì ta không thấy, không biết đúng đắn nên nhận định sai lầm rồi chấp trước vào đó mà sinh ra đủ thứ phiền não nên chấp nhận sống trong biển khổ sông mê. Chính vì vậy, tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này đều do nhân duyên hòa hợp lại mà thành, không có cái gì do một nhân mà có thể hình thành. Ai “ngộ” được lý nhân duyên thì sự tu hành sẽ không còn khó khăn gì nữa.

Cũng như hạt gạo với hạt thóc là nhân, nhưng phải có người gieo trồng, có đất, có nước, có phân bón, không khí, ánh sáng mặt trời, nhờ những duyên đó kết hợp lại làm cho hạt thóc nẩy mầm, ra lá, lớn lên, rồi trổ những bông lúa nặng trĩu chờ ngày thu hoạch. Cái chén ta dùng để ăn cơm với đất là nhân, người thợ, khuôn, nước, lửa nung là phần phụ phối hợp với nhau làm thành cái chén.

Nhờ áp dụng lời Phật dạy ta có thể chuyển nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, chuyển ba nghiệp xấu ác thành hiền thiện, đạo đức. Trong kinh Phật nói: “Thấy được lý nhân duyên là thấy Chánh pháp hay thấy đạo”. Thấy được như vậy là người có trí tuệ, là người có chánh kiến nên làm việc gì cũng vì lợi ích chúng sanh là trên hết.

Sự thật, muôn loài muôn vật trên thế gian này đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, không có một vật nào chỉ do một nhân mà hình thành. Tất cả đều phải trải qua tiến trình diễn biến của nhân quả. Cho nên, “cái này có, cái kia có, cái này không, cái kia không”. Không có cái gì chỉ do một nhân mà thành được, nếu có ai nói một nhân mà thành thì người ấy chưa hiểu thấu lý nhân-duyên-quả.

Nhờ biết rõ thân này do nhân duyên hòa hợp mà thành, từ thân người, thân thú, hay mọi cảnh vật cũng đều như vậy. Cho nên, trong kinh Kim Cương nói: “Phàm cái gì có tướng đều hư vọng, giả có, có mà không thật thể nên gọi là giả có”.

Nhờ hiểu được lý nhân duyên con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân, người thương của mình nên không sanh tâm ganh tỵ, tật đố. Điều đó sẽ giúp cho cuộc sống của ta được bình yên, hạnh phúc từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.

Nhờ hiểu được và thông suốt lý nhân duyên ta sẽ nỗ lực vươn lên làm mới cuộc đời và tự tin chính mình có đầy đủ khả năng vượt qua mọi bất hạnh, khổ đau. Nó giống như một lu nước, muốn nước bốc hơi ta phải đun lên, tạo độ nóng thì nước sẽ bốc hơi. Không có cái gì là do ngẫu nhiên hay tự nhiên mà hình thành được. Nếu muốn nước đông lại thành đá thì ta tạo duyên lạnh, muốn nước trở lại trạng thái bình thường thì ta tạo duyên ấm. Nước không cố định một thể mà nó được thay đổi tuỳ theo sự tác động của “duyên”.

Nhờ hiểu và ứng dụng lý nhân duyên vào trong đời sống hằng ngày, mỗi người chúng ta sẽ thấy rõ ràng mối tương quan chằng chịt nhân quả. Sự sống này muốn tồn tại và phát triển rất cần sự nương nhờ lẫn nhau. Hiểu được như vậy ta mới có bổn phận và trách nhiệm đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ và chia sẻ với nhau bằng tất cả tấm lòng. Nếu ai đó chỉ dùng quyền lực để áp đặt thì sẽ tạo ra mâu thuẫn đối kháng, gây ra ân oán hận thù, rốt cuộc làm đau khổ cho nhau.

Nhờ hiểu và ứng dụng lý nhân duyên vào trong đời sống hằng ngày ta sẽ thấy rõ ràng sự sống trên đời này là vô thường, luôn chuyển biến, đổi thay không ngừng nghỉ. Vì vô thường nên vô ngã, tuy vô ngã nhưng có tinh thần chuyển biến liên tục.

Sự suy nghĩ của con người cũng vậy, tuy không có chủ thể cố định nhưng có tâm thức liên tục trôi chảy không dừng. Vì vậy, khi ta nghĩ tốt, lúc ta nghĩ xấu, trong một ngày có không biết bao nhiêu suy nghĩ, suy nghĩ liên tục không dừng, không mất. Do đó, lý vô ngã của nhà Phật chỉ cho ta thấy sự chuyển biến liên tục chứ không phải vô ngã là không biết gì. Và cũng nhờ sự chuyển biến liên tục này mà ta mới tu tập được, nếu cái ngã là một chủ thể thường hằng bất biến, không thay đổi được thì dù ta có tu tập làm mới cuộc đời, làm mới lại chính mình cũng không lợi ích gì.

Lý nhân duyên cũng cho chúng ta biết khi có nhân mà không đủ duyên thì sự việc ta đang muốn cũng không thể hình thành được. Ví dụ như chúng ta có đủ gạo, nước, củi, nồi, nếu muốn ăn cơm thì phải có lửa và người nấu cơm. Lý nhân duyên cho chúng ta biết cuộc sống của ta có tốt, có xấu, có giàu, có nghèo đều là do nhiều nhân duyên kết hợp hài hoà.

Lý nhân duyên giải thích cho chúng ta biết giả dụ hai người cùng tu chung một pháp môn mà người này đạt được kết quả tốt đẹp còn người kia thì thêm nhiều phiền não thì tất cả đều do nhân duyên, duyên đầy đủ thì mau sớm hình thành và ngược lại.

Khi hiểu được lý nhân duyên rồi chúng ta có thể thay đổi hoàn cảnh theo ý muốn của mình. Muốn có căn nhà để ở thì phải có nhiều duyên hợp lại như gạch, ngói, cát, đá, xi măng, cây, sắt thép và con người. Không có gì do một nhân mà có thể hình thành.

Do đó, Phật dạy ai tin và hiểu thấu lý nhân duyên thì có thể chuyển nghiệp xấu thành tốt, chuyển hoạ thành phúc, chuyển nghèo khổ thành giàu có… Chính nhờ lý nhân duyên này mà chúng ta có thể làm mới lại chính mình từ một con người tầm thường trở thành người sống có ích cho xã hội.

Muốn sống tốt để phục vụ mọi người chúng ta cần phải gần bạn hiền, thầy giỏi, gần những vị tu hành chân chínhlời nói chân thật, có sức thuyết phục lòng người đúng theo tinh thần nhân quả. Nếu chúng ta muốn trở thành người xấu thì cứ trộm cắp, giết hại, lường gạt của người khác rồi vui chơi trác tánggiao du với kẻ ác. Do đó, nếu chúng ta biết tạo duyên tốt thì ngày càng được tiến bộ hơn, ngược lại tạo duyên xấu thì bị sa đoạ và chịu khổ đau.

Nhờ đức Phật đã trải nghiệm qua thời tu hành trong kiếp hiện tại và nhiều đời hành đạo Bồ tát đã chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng lý nhân duyên là một lẽ thật mà ngày hôm nay các nhà khoa học đều công nhận. Lẽ thật đó công bằng, thực tế, không có một đấng nào ban phước giáng hoạ vì bản ngã cá nhân. Nếu chúng ta hiểu được lý nhân duyên thì từ thiên nhiên cho đến muôn loài vật đều theo ngyên lý trùng trùng duyên khởi tương quan mật thiết với nhau.

Chính con người do thấy biết sai lầm nên tưởng mình là thật ta, thấy mình là trung tâm của vũ trụ nên càng chấp ngã nặng nề gây khổ đau cho nhiều người khác. Hiểu được lý nhân duyên chúng ta mới cố gắng vươn lên làm lại cuộc đời, chúng ta sẽ tự cải thiện đời sống của mình bằng cách tinh cần siêng năng, nhờ vậy từ nghèo khổ có thể trở thành giàu có.

Nếu chúng ta cứ nghĩ có một ông trời ban phước giáng hoạ thì ta sẽ ỷ lạitrở thành kẻ yếu đuối, nhu nhược, chỉ biết dựa dẫm vào người khác mà không biết phấn đấu vươn lên. Nhất là những đứa con ỷ lại vào cha mẹ dễ trở thành kẻ hư hỏng. Ngoài ra, khi hiểu được lý nhân duyên chúng ta sẽ bớt chấp ngãdễ cảm thông, tha thứ với mọi người. Nhờ quán sát lý nhân duyên nên con người bớt si mê, chấp ngã mà dần hồi thành tựu đạo vô ngã, vị tha.

Hiện nay, các nhà khoa học chế biến được những máy móc tinh vi hay đồ dùng đẹp đẽ, đều ứng dụng lý nhân duyên. Đó là lẽ thật, vì như tất cả chúng ta đều biết khi phân tích con người ai cũng hiểu thân này do bốn thứ đất-nước-gió-lửa hợp thành. Nếu nhìn theo y học bây giờ thì con người có thể phân tích ra thành rất nhiều chất. Thiếu những chất ấy thân này sẽ sanh bệnh. Vì thế, khi biết thân mình thiếu chất gì người ta bồi bổ thêm chất ấy. Phân tích cho tới tận cùng thì con người có trăm ngàn muôn ức tế bào. Những tế bào đó có những chức năng riêng, mỗi thứ đều có công việc riêng của nó.

Lý nhân duyên là một chân lý sống của cuộc đời, không ai có thể phủ nhận được. Chính vì vậy, người nào sống đúng như lý nhân duyên là người biết sống hoà hợp, biết thương yêu đoàn kết, giúp đỡ mọi người bằng trái tim hiểu biết.

Thấy được lý nhân duyênchúng ta nhìn đúng với các nhà khoa học thời hiện đại. Khoa học phân tích tất cả mọi hiện tượng, sự vật không có cái gì tự có và cũng không có cái gì là do một nhân mà hình thành. Tất cả đều do nhiều yếu tố hợp lại. Khoa học thấy tột được lý nhân duyên nên mới phát minh được những máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại để phục vụ đời sống con người mà những người thời xưa không bao giờ tin được.

Rõ ràng, những nhà khoa học biết ứng dụng lý nhân duyên nên mới có thể chế tạo ra phi cơ bay trên không, tàu thủy đi dưới biển, hoặc xe hơi chạy nhanh ngoài đường phố… Nhưng đáng tiếc, con người chỉ ứng dụng lý nhân duyên trong cuộc sống vật chất mà ít ai ứng dụng lý nhân duyên trong đời sống tinh thần để biết cách làm chủ bản thân mà không làm đau khổ cho người và vật.

Như tâm thức của chúng ta là một dòng chuyển biến liên tục, tuy không có chủ thể cố định nhưng nó vẫn thay đổi liên tục, khi thì nghĩ thiện, khi thì nghĩ ác. Bởi tâm thức suy nghĩ liên tục nên nó không bao giờ mất hẳn, hễ tạo nghiệp thì sự liên tục đó dẫn tới thọ quả báo khi đủ nhân duyên.

Hiểu được lý nhân duyên ta biết thân này từ duyên sanh nên chúng ta không si mê, chấp ngã, làm khổ đau người khác. Một số người hiểu lầm cho rằng sau khi chết linh hồn hoặc sanh lên cõi trời, hoặc xuống địa ngục, trước sau như một không hề thay đổi. Ai làm người khi chết sẽ tái sinh làm người, làm thú vật thì lại tái sinh làm thú vật. Đạo Phật không thừa nhận có một linh hồn cố định, nếu như vậy chúng ta tu hành làm chi vô ích, bởi có tu cũng vẫn sẽ như vậy.

Nhà Phật gọi là tâm thức vì nó biến chuyển thay đổi theo thời gian tuỳ theo duyên tốt-xấu, còn linh hồn thì trước sau như một. Tâm thức thì luôn chuyển biến, thay đổi do con người biết suy tư, nghĩ tưởng. Khi còn nhỏ tâm thức chúng ta được huân tậpgiới hạn nên hiểu theo kiểu trẻ con, khi lớn lên được học hỏi, nghiệm xét nên tâm thức hiểu biết theo sự phát triển của cuộc sống. Người hay siêng năng, chăm chỉ học hành thì sẽ giỏi hơn những người khác do tâm thức lúc nào cũng sáng suốtthông tuệ hơn những người không chịu khó siêng năng, cần mẫn.

Tâm thức của chúng ta luôn luôn chuyển biến theo sự suy nghĩ, nhận thức ngày càng được tinh thông hơn. Còn linh hồn thì ở một chỗ vì nó nguyên vẹn nên có cố học cũng không giỏi, không học cũng sáng suốt. Do đó, nếu ai chấp vào có một linh hồn cố định thì chúng ta sẽ nghèo dốt mãi mãi, không thể giàu cótu học để chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc.

Hiểu được và thấu tột lý nhân duyênchúng ta phá được mê lầm, chấp ngã từ vô thuỷ kiếp đến nayngu si chấp ngã là nhân dẫn đến làm khổ người và vật. Phá được chấp ngã thì mọi sự bất công và khổ đau sẽ hết. Tóm lại, hiểu và ứng dụng lý nhân duyên của nhà Phật ta sẽ bớt tham lam, ích kỷ, nhỏ nhoi, ti tiện, oán giận, hờn dỗi, bớt si mê chấp ngã. Mọi người sẽ thấy đúng lẽ thật qua lý nhân duyên, do đó chúng ta sẽ sống yêu thương nhau hơn.

Khi hiểu được lý nhân duyên ta sẽ có bổn phận, trách nhiệm đóng góp, sẻ chia và nâng đỡ tha nhân, góp phần làm giảm bớt khổ đau cho nhân loại, yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau để mình và người được sống an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6312)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8555)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5275)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5839)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7471)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6382)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4765)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5893)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6137)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6615)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5964)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7086)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6690)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4823)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7742)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9848)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5351)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6448)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5455)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5872)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6433)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5714)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6455)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7077)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6300)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10684)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6202)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6757)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6519)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5752)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7575)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6267)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9670)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4193)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4317)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4782)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5345)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5299)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5831)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6802)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5563)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4511)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5342)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5014)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4379)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6882)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4625)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8431)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7229)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8388)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant