Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại

12 Tháng Bảy 201421:26(Xem: 8817)
Phật Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại

Phật Giáo trong xã hội hiện đại

Ni sư Thubten Chodron
Lược dịch: Huệ Pháp

blank



Ứng dụng giáo lý Phật giáo trong xã hội hiện đại như thế nào?

Đây là khía cạnh quan trọng trong xã hội hiện nay. Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày, trong mối liên hệ với gia đình, với bạn bè đồng nghiệp, với những người xung quanh trong cùng đất nước, và với những người khác ở những nước khác. Chúng ta cần đem giáo lý về tình thương của đức Phật đến với những người đồng nghiệp, những người trong gia đình, thậm chí những người ở cửa hàng tạp hóa hay trong phòng tập thể lực. Việc đem tâm từ đến với mọi người đó không phải là cách rải truyền đơn như những người cầm tờ rơi phát quảng cáo ở các ngã tư đường mà phải xuất phát từ chính bản thân chúng ta, chính chúng ta phải sống trong tinh thần từ bi đó, rồi mới áp dụng nó trong xã hội. Một khi, tâm từ xuất phát từ chính con tim của mình thì tự động sẽ ảnh hưởng một cách tích cực đến mọi người xung quanh. Ví dụ, chúng ta dạy con cái về lòng thương yêu, tha thứkiên nhẫn nhưng không chỉ là lời nói mà còn phải xuất phát từ hành động của chính mình, những đức tính chúng ta dạy cho con trẻ phải xuất phát từ chính lối cư xử của mình.

1. Dạy cho con tính thương người.

Nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ dạy con trẻ nuôi dưỡng lòng hận thù, chúng sẽ không bao giờ tha thứ khi người khác xâm hại đến bản thân. Đôi khi bạn dạy cho con mình ghét một ai đó trong gia đình chỉ vì mình ghét người đó. Điều đó khiến cho con mình bị một chiếc hố ngăn cách với các thành viên còn lại trong gia đình. Đôi khi cũng có người dạy con cái của họ rằng, cách tốt nhất để giải quyết vấn đề tranh cãi với ai đó là không bao giờ nói chuyện với họ. Điều đó, theo bạn có giúp cho họ có được hạnh phúc và lòng thương người không? Hãy nghĩ một cách thấu đáo về điều này để đảm bảo rằng bạn chỉ dạy cho con mình những gì có giá trị, những gì là tốt nhất.

Một minh hoạ rõ ràng nhất chính là tự soi rọi ngay chính trong tâm mình. Một khi tâm oán hận, lòng căm thù, hay mối ác cảm khiến bạn đau khổ, lẽ nào bạn lại truyền những mối độc hại đó, những cảm thọ đau khổ đó cho đứa con yêu dấu của mình. Đừng bao giờ dạy cho con mình những cảm thọ khó chịu đó.

2. Mang tâm từ đến trường học

Chúng ta mang tâm thương yêu không chỉ trong gia đình mà còn trong môi trường giáo dục (trường học). Một điều rất quan trọng là trẻ con đến trường không chỉ thu thập về thông tin mà còn học cách làm người và cách giải quyết những vấn đề nan giải trong cuộc sống của chúng. Các bậc phụ huynh và thầy cô bỏ ra nhiều thời gian và tiền bạc để dạy cho con trẻ nào là các môn khoa học, văn học, địa lý, lịch sử, vi tính v.v... nhưng họ có bỏ chút thời gian nào để dạy cho con trẻ lòng thương người? Chúng tamôn học nào dạy về cách trao truyền lòng thương yêu chưa? Chúng ta có dạy cho trẻ cách đối diện với những cảm thọ tiêu cực và cách để giải quyết mối bất hòa một khi xảy ra giữa bọn trẻ với nhau? Tôi nghĩ điều này quan trọng hơn là những môn học tại trường. Tại sao? Trẻ em có thể biết rất nhiều nhưng khi chúng trưởng thành với tâm ác cảm, thù hận hay hám danh thì cuộc sống của chúng liệu có được hạnh phúc?

Các bậc phụ huynh đều luôn muốn cho con mình có được một tương lai xán lạn, nên nghĩ rằng con mình cần phải có nhiều tiền. Họ đầu tư cho con mình học những môn học để sau này có được một công việc tốt, làm ra nhiều tiền - như thể tiền là nguyên nhân đem lại hạnh phúc vậy. Khi một người sắp hấp hối, gần kề cái chết, ta không bao giờ nghe họ nói về kế hoạch kiếm tiền hay nói về số tiền mà họ đã kiếm được trong quá khứ, mà chỉ nghe họ hối tiếc về những gì họ đã làm sai trong cuộc đời của họ. Họ sẽ mong mọi người tha thứ cho những sai lầm mà họ đã làm. Nếu bạn muốn con của mình có được một tương lai tươi sáng thì không chỉ dạy cách kiếm tiền mà còn cách sống, cách đạt được hạnh phúc.

3. Dạy cho con biết cách chia sẻ.

Có những bậc phụ huynh cư xử theo lối này: khi con trẻ đi học về, chúng đòi cha mẹ mình mua những thứ mà bạn đồng lớp có, kiểu như: “Bố, mẹ, con muốn cái quần Jean này, con muốn đôi bông tai mới, con muốn cái mà thằng bạn con có…”. Rồi những bậc cha mẹ đó nói con trẻ như sau: “Những thứ đó không đem lại niềm vui thích nào đâu con, không đem lại hạnh phúc, con không cần thiết để có nó đâu”. Nhưng sau đó họ lại ra ngoài mua những thứ mà những người khác có cho mình, thậm chí những thứ trong nhà đã có và ít sử dụng. Trong trường hợp này, những gì họ nói và làm trái ngược nhau. Bạn nói con trẻ tập chia sẻ cho người khác nhưng bạn lại không bao giờ làm từ thiện, hay chia sẻ những thứ không dùng cho người nghèo hay những người cần. Có một số người, trong nhà họ có rất nhiều thứ mà họ rất ít khi hay hầu như không dùng tới nhưng không bao giờ cho người khác. Tại sao? Họ sợ rằng nếu cho đi, họ sẽ lại cần đến nó trong tương lai. Chúng ta không thực hành hạnh bố thí, chia sẻ nhưng lại dạy cho con cái của mình tập tánh chia sẻ. Cách đơn giản nhất cho việc dạy con trẻ lòng rộng lượng là bảo chúng cho đi những thứ không dùng hồi năm ngoái. Có rất nhiều người nghèo và họ rất cần những thứ đó để dùng, vì thế, điều này sẽ giúp cho chính chúng ta, cho con cái chúng ta thực tập hạnh chia sẻ này.

Một cách khác để dạy cho con cái mình lòng tốt là không mua những thứ mà chúng muốn. Thay vào đó, khuyên con mình nên dành dụm số tiền đó để làm từ thiện, cho người nghèo. Bạn có thể dạy cho con mình từ những ví dụ mà bản thân mình đã trải nghiệm, điều đó sẽ khiến con mình dễ hình dungdễ hiểu hơn.

4. Dạy cho con về cách đối xử với thiên nhiênsử dụng đồ tái chế.

Tiếp theo là dạy cho con mình về môi trường và các sản phẩm tái chế. Bảo vệ môi trường mà chúng ta cùng sống với mọi ngườivạn vật là cách thực tập lòng từ bi. Nếu ta phá hủy môi trường thì chúng ta gây hại đến cho người khác. Ví dụ, nếu chúng ta sử dụng nhiều đồ dùng sử dụng một lần rồi bỏ, không sử dụng lại thì chúng ta đã tặng những thứ đó cho thế hệ con cháu sau này. Con cháu chúng ta sẽ thừa kế đống rác khổng lồ đó. Tôi rất mừng khi thấy nhiều người sử dụng đồ tái chế và sử dụng lại những thứ không đáng vứt bỏ đi. Đó là một phần thực tập trong giáo lý Phật giáo. Chùa hay các trung tâm Phật giáo phải đi đầu trong việc bảo vệ môi trường và sử dụng đồ tái chế.

Đức Phật không trực tiếp chỉ dạy nhiều vấn đề phức tạp xảy ra trong cuộc sống hiện đại này như việc sử dụng đồ tái chế, bởi thời của Ngài, không có việc này. Nhưng Ngài đã dạy những phương phápchúng ta có thể áp dụng trong những tình huống xảy ra trong thời hiện đại. Những phương pháp này giúp chúng ta giải quyết được những vấn đề trong thời đại mới mà nó không tồn tại cách đây 2500 năm.

5. Những cái nghiện mới trong xã hội hiện đại.

Đức Phật đã trực tiếp dạy chúng ta về tác hại của các chất gây say và khuyên chúng ta không sử dụng các chất gây hại này. Thời đức Phật, chất gây say chính là rượu. Suy rộng ra, lời dạy của đức Phật còn khuyên không dùng các chất ma túy hay lạm dụng các chất an thần. Rộng hơn nữa, chú ý những thứ khiến chúng ta nghiện hay đam mê có trong cuộc sống hiện nay là truyền hình. Trong xã hội hiện đại này, con người rất dễ nghiện phương thức giải trí này. Ví dụ, sau khi đi làm về, chúng ta mệt và muốn thư giản. Làm gì để thư giản? Chúng ta ngồi xuống và bật truyền hình lên, ngồi trước máy vô tuyến hàng giờ đồng hồ và thiếp đi. Tiền nhân của chúng ta, những người đã đạt được giải thoát cứu cánh, không bỏ phí thời gian để xem vô tuyến hay các thú giải trí khác. Đôi khi, có những chương trình truyền hình nào đó đem lại sự tệ hại hơn là nghiện rượu và ma tuý, đó là những chương trình có những cảnh bạo lực, chết chóc. Chúng ta cần tránh cho con trẻ xem những chương trình độc hại như thế này. Cha mẹ phải lựa chọn những kênh truyền hình nào phù hợp với lứa tuổi của con mình.

Mua sắm cũng là một cái nghiện khác không kém phần quan trọng trong xã hội hiện nay. Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe về điều này nhưng hoàn toàn đúng, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu về cái nghiện shopping này. Một vài người nào đó, tâm trạng buồn chán, họ thích uống rượu hay dùng ma túy để giải sầu. Còn những người khác thì lại chọn cách khác, tới các trung tâm mua sắm, siêu thị để giải khuây. Họ mua những thứ mà có khi họ không cần tới, chỉ để vơi đi nỗi buồn. Họ đang cố quên đi nỗi đau trong tâm họ bằng cách mua sắm. Thậm chí, có người chỉ đến siêu thị, lang thang hàng giờ đồng hồ chỉ đề nhìn ngắm, rồi khi trở về nhà, tâm trạng cũng chẳng thể nào khá hơn.

Một cái nghiện khác là ăn quá nhiều hay ăn quá ít. Trong trường hợp này, để giải quyết nỗi buồn, người đó đã dùng biện pháp ăn uống. Tôi thường xuyên nói đùa rằng, “tam bảo” của người Mỹ là: xem ti vi, đi shopping và tủ lạnh (chứa thức ăn). Đó là ba thứ mà người Mỹ quy y (quay về và nương tựa)! Những thứ đó, chắc chắn không đem lại hạnh phúc nào cả mà còn khiến chúng ta thêm rắc rối. Nếu chúng ta có thể xoay chuyển “tam bảo” của người Mỹ thành Tam Bảo của Phật pháp (Phật - Pháp - Tăng) thì chúng ta sẽ có nhiều hạnh phúc hơn. Trong đời sống hằng ngày, việc thực tập những lời dạy của đức Phật có thể giúp chúng ta giải quyết được những tâm tư bất ổn của mình. Ví dụ, khi chúng ta mệt hay bị stress, chúng ta có thể thư giản bằng cách niệm danh hiệu của đức Phật hay lạy Phật. Trong khi niệm danh hiệu hay lạy Phật, chúng ta tưởng tượng đức Phật từ bi đang hiện diện trước mặt, hào quang của Ngài đang chiếu khắp thân thể của mình, xóa tan đi bao nhiêu nỗi phiền muộnmệt mỏi trong tâm. Vài phút sau, chúng ta sẽ cảm thấy thân thể trở lại cân bằng, đầu óc lại tỉnh táo. Cách thư giản này chắc chắn là rẻ và dễ dàng hơn là ‘quay về và nương tựa’ nơi ti vi, siêu thị và tủ lạnh.

Hãy thử một lần xem!!!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8542)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5272)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5834)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7458)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6379)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5974)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4758)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5710)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5882)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6126)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6600)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5954)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7060)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6679)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4813)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4942)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7721)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9829)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7542)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5336)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6430)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5433)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5845)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6400)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5701)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6445)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7070)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6295)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10678)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6692)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6194)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6750)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6511)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5536)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8260)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5743)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7568)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6264)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9665)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6400)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4183)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4311)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4773)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5338)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5293)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5825)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6788)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5557)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4502)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5337)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5004)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4365)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6879)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4617)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8420)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7224)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8375)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7532)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant