Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương XIV: Cõi Phật

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 17067)
Chương XIV: Cõi Phật


TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in Everyday Life

CHƯƠNG XIV 
CÕI PHẬT 
(BUDDHAHOOD) 

Để tìm được sự che chở ở "ba nơi nương tựa", với khát vọng mạnh mẽ đạt tới sự giác ngộ cao nhất nhằm giáp ích cho mọi sinh linh, chúng ta phải thông hiểu tường tận bản chất của sự giác ngộ. Đương nhiên, chúng ta phải hiểu rõ bản chất của thế gian trần tục là đầy rẫy những khổ đau. Chúng ta biết được sự phù phiếm vô nghĩa của những đam mê trong cuộc sống luân hồi, mà chúng ta thì rất dễ bị cám dỗ bởi những đam mê đó. Chúng ta quan tâm đến những đau khổmọi người đang liên tục gánh chịu và chúng ta khao khát giúp mọi người vượt qua được đau khổ đó. Khi việc luyện tập của chúng ta được thúc đẩy bởi những khao khát như vậy, chúng ta cố gắng hết sức đạt tới sự giác ngợ hoàn toàn của Cõi Phật, chúng ta là những người luyện tập Mahayana.

Thuật ngữ "Mahayana" thường gắn liền với những hình thức Phật giáoTây Tạng, Trung Hoa và Nhật Bản. Thuật ngữ này đôi khi cũng được áp dụng cho những trường Triết học Phật giáo.

Tuy nhiên, ở đây tôi sử dụng thuật ngữ "Mahayana" để chỉ về những khao khát trong lòng của một cá nhân luyện tập. Động cơ thúc đẩychúng ta có là mong muốn đem niềm hạnh phúc đến với mọi sinh linh và nổ lực lớn nhất mà chúng ta thực hiện là nhằm giúp cho tất cả mọi người đều đạt được niềm hạnh phúc đó. Những người luyện tập Mahayana cống hiến hết mình nhằm đạt tới Cõi Phật. Họ cố gắng thủ tiêu những suy nghĩ ích kỷ và sự ngu dốt gây cản trở họ đạt tới trạng thái giác ngộ hoàn toànthông suốt. Những người luyện tập hiến mình cho việc đào luyện những phẩm chất đạo đức như lòng khoan dung quảng đại, nhân nghĩa và lòng kiên nhẫn tới một mức độ mà họ có thể sẽ cho đi bản thân mình bằng mọi cách cần thiết và bất chấp mọi khó khăn cũng như những điều bất công nhằm phục vụ mọi người. Quan trọng nhất là họ phát triển sự thông suốt của mình: ý thức của họ về "sự trống rỗng". Họ cố gắng đạt được sự nhận thức về "sự trống rỗng" của sự tồn tại cố hữu ngày một sâu sắc hơn và nâng cao tính tinh tế của tâm hồn nhằm đạt được mục đích. Dĩ nhiên là rất khó có thể mô tả được rõ ràng quá trình đạt tới Cõi Phật. Có thể nói rằng khi ý thức của con người về "sự trống rỗng" của sự tồn tại cố hữu trở nên sâu sắc hơn, thì mọi vết tích của lòng ích kỷ sẽ bị xóa sạch và người ta đạt tới một trạng thái giác ngộ hoàn toàn - Cõi Phật. Tuy nhiên, cho tới lúc chúng ta bắt đầu có được những ý thức như vậy, sự hiểu biết của chúng ta cũng chỉ là lý thuyết.

Khi những tàn tích cuối cùng của những quan niệm sai lầm ngu dốt và những khuyng hướng sai trái được gỡ bỏ khỏi tâm hồn của người luyện tập, tâm hồn trong sạch tinh khiết còn lại đó là một tâm hồn của Đức Phật. Người luyện tập đã đạt được sự giác ngộ hoàn toàn còn mang nhiều đặc tính khác nữa, theo ngôn ngữ Phật giáo, những đặc tính đó là "những thể xác". Một số thể xác này ở hình thức vật chất, một số khác lại không ở hình thức vật chất. Những thể xác không ở hình thức vật chất bao gồm cả một thân thể thật sự. Đây chính là một tâm hồn tinh khiết như chúng ta đã biết. Đặc tính thông suốt của một tâm hồn giác ngộ, khả năng liên tục nhận thức mọi sự vật hiện tượng của tâm hồn, và cả ý thức của tâm hồn về "sự trống rỗng" của sự tồn tại cố hữu đều được biết đến như là một thề xác thông suốt của Đức Phật. Và đặc tính trống rỗng của tâm hồn thông suốt này gọi là thể xác bản chất của Đức Phật. Cả 2 loại thề xác trên đều không ở hình thức vật chất. Những thể xác đặc biệt này đạt được qua khía cạnh "bao la" của cuộc hành trình tâm hồn.

Vậy thì có 2 biểu hiện thể xác khác nhau của sự giác ngộ. Ở đây, chúng ta bước vào một lĩnh vực mà hầu hết chúng ta điều khó có thể nắm bắt. Những biểu hiện này được gọi là những hình thức thể xác của Đức Phật. Thể xác đạt được của Đức Phật là một biểu hiện của hình thức vật chất, nhưng hầu hết chúng ta đều không nhìn thấy được. Chỉ có những ai nhận thức được ở một mức độ rất cao mới có thể nhìn thấy được, đó là những vị Bồ Tát thấu hiểu những tận cùng của chân lý được thúc đẩy bởi khao khát mãnh liệt đạt tới Cõi Phật vì lợi ích của mọi người.

Không giống như thể xác có được của Đức Phật, những biểu hiện của việc đạt tới giác ngộ hoàn toàn có thể được trông thấy bởi hầu hết mọi người. Đó là những cơ thể phát xạ (emanation). Nói cách khác, những biểu hiện này là hiện thân của những người giác ngộ hoàn toàn. Tình trạng phát xạ xuất hiện vào lúc một người luyện tập đạt tới sự giác ngộ hoàn toàn, đó lá kết quả của lòng từ bi khao khát giúp đỡ mọi người. Qua cơ thể phát xạ đó, Đức Phật dạy bảo mọi người về phương pháp mà chính Đức Phật đã ứng dụng tâp luyện và đạt được trạng thái thoát ra khỏi đau khổ.

Một Đức Phật giúp đỡ chúng ta qua thân th? phát xạ của mình như thế nào? Một Đức Phật thực hiện những hành vi giác ngộ của mình chủ yếu qua những lời truyền dạy, Đức Phật Shakyamuni, vị Phật trong lịch sử, người đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ Đề cách đây 2500 năm, là một thân thể phát xạ.

Lời giải thích như vậy về những khía cạnh khác nhau của trạng thái giác ngộ hoàn toàn nghe có vẻ hơi giống một chuyện khoa học viễn tưỡng, đặc biệt khi chúng ta khảo sát khả năng xảy ra của vô số sự phát xạ của vô số Đức Phật hiện thânvô số vũ trụ để giúp đỡ vô số người. Tuy nhiên, trừ khi sự hiểu biết của chúng ta về Cõi Phật đủ sâu sắc đề nắm bắt những khía cạnh bao la của sự giác ngộ, của sự che chởchúng ta có nơi Đức Phật sẽ không thể gây ra được những hiệu lực cần thiết. Việc rèn luyện Mahayana, chúng ta hiến mình luyện tập nhằm tìm kiếm niềm hạnh phúc vì mọi ngưới, là một sự thông hiểu rộng lớn. Nếu hiểu biết của chúng ta về Đức Phật chỉ giới hạn ở những câu chuyện lịch sử về Đức Phật Shakyamuni, chúng ta sẽ tìm kiếm sự che chở nơi những người đã chết rất lâu và những người đó không còn khả năng giúp đỡ chúng ta được nữa. Để cho sự nương tựa của chúng ta nơi Đức Phật thật sự sinh động mạnh mẽ, chúng ta phải nhận thức được những khía cạnh khác nhau của Cõi Phật.

Vậy thì chúng ta giải thích như thế nào về sự tồn tại đời đời của Đức Phật? Chúng ta hãy xem xét tâm hồn của chính chúng ta, nó giống như một dòng sông - một dòng sông chảy liên tục của sự hiểu biết giới hạn, mỗi dòng sông chảy đến một hướng khác nhau của hiểu biết. Dòng sông của ý thức như vậy trôi chảy giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác và thậm chí theo quan điểm Phật giáo, từ kiếp này qua kiếp khác. Mặc dù thể xác của chúng ta không còn theo chúng ta được nữa một khi sức lực của chúng ta cạn kiệt, nhưng những dòng chảy của ý thức vẫn tiếp tục băng qua cái chết và cuối cùng xuất hiệnkiếp sau, bất kể là nó sẽ xuất hiệnhình thức nào. Mỗi người trong chúng ta đều sở hữu một dòng sông về ý thức như vậy. Và dòng sông đó không có điểm khởi đầu, cũng chẳng có điểm kết thúc. Chẳng có gì có thể ngăn nó lại được. Nó không giống những cảm xúc tức giận và lưu luyến dễ dàng bị chặn đứng khi áp dụng những biện pháp đối kháng thích hợp. Hơn nữa, tính chất chủ yếu của tâm hồntrong sạch, tinh khiết; những ô uế trong tâm hồn có thể được tẩy sạch, làm cho sự liên tục của tâm hồn tinh khiết này trở thành bất diệt. Một tâm hồn hoàn toàn không một chút o â uế là một thân thể thật sự của Đức Phật.

Nếu chúng ta suy ngẫm về trạng thái giác ngộ hoàn toàn theo cách này, sự cảm kích của chúng ta dành cho sự vĩ đại của Đức Phật sẽ tăng lên, lòng tin của chúng ta nơi Đức Phật cũng tăng lên, Khi chúng ta ý thức được những phẩm chất của Đức Phật, khát vọng đạt tới trạng thái này của chúng ta trở nên mãnh liệt hơn. Chúng ta sẽ hiểu rõ được giá trị và sự cần thiết của khả năng xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau để giúp đỡ mọi sinh linh. Điều này cho chúng ta một sức mạnhquyết tâm cao độ đạt tới một tâm hồn hoàn toàn giác ngộ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 368)
Đức Phật thị hiện trong đời vì một đại sự nhân duyên: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”.
(Xem: 398)
Trong Kinh Giải Thâm Mật do ngài Huyền Trang dịch, phẩm Du già (Yoga) thứ 6 giảng về Chỉ (Samatha, Định), Quán (Vipassana, Quán) và Chỉ - Quán đồng thời.
(Xem: 388)
Hầu hết các loài trên hành tinh này đều thiếu khả năng trí tuệ để xây dựng hệ thống niềm tin.
(Xem: 432)
Hầu như ai cũng công nhận rằng kinh sách cổ xưa đã trải qua nhiều đời và phải chịu sự sửa đổi, thêm bớt, hoặc hoàn toàn do ngụy tạo.
(Xem: 485)
Như một người lạc lối trong rừng hoang nguy hiểm chợt cảm thấy an ổn khi tìm thấy được đường ra, Bồ-đề Nguyện và Bồ-đề Hành
(Xem: 498)
Chúng ta ở đây để chia sẻ suy nghĩ của mình về những gì Phật giáo có thể mang lại trong thời đại Trí tuệ nhân tạo.
(Xem: 513)
Trong Kinh Tạng Pali, có kể hai truyện về hai người cha thời Đức Phật. Qua hai truyện này, chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Chánh pháp.
(Xem: 716)
Mở đầu Bản “Giải thích Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi của Long Thọ”, ngài Nguyệt Xứng viết:
(Xem: 724)
Để phân tích sâu hơn câu chuyện "Bốn cô vợ" qua lăng kính Phật giáo, tôi sẽ mở rộng các khía cạnh triết lý,
(Xem: 637)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(Xem: 952)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 927)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(Xem: 737)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(Xem: 846)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 943)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 807)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 1086)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 1131)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 1199)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 1179)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1545)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 1909)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1549)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1675)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 1910)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 1988)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 2182)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 1968)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 1646)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 1977)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1734)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 2032)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 1968)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 2334)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 1954)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 2000)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 2233)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1738)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 2035)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 2137)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 2152)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1529)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 2144)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1518)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1466)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 1342)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 2157)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1719)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 2045)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 2351)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 2589)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 2758)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 2413)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 2353)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1793)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1799)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1613)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(Xem: 1505)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(Xem: 2943)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM