Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2 Tri Nhận Tâm Lý Học, Động Cơ Và Tình Cảm

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4557)
Chương 2 Tri Nhận Tâm Lý Học, Động Cơ Và Tình Cảm

CHƯƠNG II
TRI NHẬN TÂM LÝ HỌC,

ĐỘNG CƠ VÀ TÌNH CẢM


ĐỊNH NGHĨA TRI NHẬN 

 Tri nhận (Cognition) có ý nghĩa “Quá trình của sự hiểu biết” (knowing), là một vấn đề hoạt động tâm trí, sử dụng ngôn ngữ, tưởng tượng và phát sinh quan niệm (hoàn cảnh kích thích và đối với kích thích của phản ứng đã có). Loại “quá trình hiểu biết” nầy là một cái gì không thể trông thấy, chúng ta không thể thấy được những cái được mệnh danh là tư khảo, suy lý hoặc ký ức, nhưng, chúng ta có thể quan sátnghiên cứu hành vi do những hoạt động nầy sanh ra. Đức Phật dạy rằng, quá trình tri nhận của chúng tathực tại của quá trình cảm quan (reality of the sensory process), tri nhận của chúng ta cũng cùng với thành phần quan niệm và tưởng tượng của phi cảm quan (non-sensory) kết hợp tại một chỗ. Chỉ thú của tri thức tâm lý học của đức Phật và khoa học tánh của tâm lý học hiện đại đã có sự giống nhau. 

TRÍ THỨC AO HƠN 

 Đức Phật đã thử qua các loại phương pháp như khổ hạnh (penance), tự ngã khổ tu (self-mortification). Cấm giới (aroidance) và ẩn độn (seclusion) v.v… phát triển tự ngã. Loại phát triển về năng lực cao nầy, đã không phải là một loại thần bí mà chính là sự phát triển tự nhiên của một loại tiềm năng nào đó của một con người, nó không phải là sự xuất hiện đột nhiên của một lực lượng thần bí nào đó mà là sự phát triển một cách dần dần. Loại phương thức phát triển tiệm tiến nầy liên quan đến 3 giai đoạn : Tháo thủ đạo đức, công phu nhận định (samadhi or concentration) và sự bồi dưỡng của trí huệ. Loại đầu nhập nầy cần phải trải qua thời gian suốt đời thí nghiệm, đức Phật cuối cùng đã đạt đến sự phá trừ vô minh và những buộc ràng của phiền não

 Bất cứ ai tham cứu, tìm hiểu về tâm lý học tri nhận của Phật giáo thì đều không thể thờ ơ đối với những phạm vi tâm lý tri giác cao độ nầy. 

TRI NHẬN VÀ ĐỘNG CƠ 

 Tâm lý học tri nhận không thể tách rời động cơ nghiên cứu. Đức Phật sở dĩ phân tích động cơ của tâm lý nhân loại là vì muốn chỉ bày nguyên nhân thống khổ của nhân sinh, và tầm cầu phương pháp để làm giảm khinh sự thống khổ ấy, điều đó cũng chính là yêu cầu chúng ta cần phải có một năng lực tri nhận bén nhạy và tự cải thiện chúng ta. Dục vọng của nhân loại ảnh hưởng năng lực tri nhận, nhưng tri nhận cũng có tác dụng đối với dục vọng

 Đức Phật không chủ trương cắt đức dục cầu của cảm quan mà là chủ trương huấn luyện dục cầu của những cảm quan nầy để khiến cho những kích thích ngoại tại không thể nhiễu loạn nội tâm. Đức Phật đã không tìm cách nén ép, co rút cảm quan mà chỉ muốn làm cho cảm quan phát triển, cải thiện và tịnh hóa. 

TRI NHẬN VÀ TRỊ LIỆU 

 Đức Phật dạy rằng có hai loại phương phápthể đạt đến sự phát triển trên phương diện tinh thần : Ninh Tịnh (Tranquillity), sự tĩnh lặng an bình; và Đổng Kiến (Insight), sự nhìn thấy xuyên suốt bên trong sự vật. Nhưng, cũng có 5 loại nhân tố có thể nhiễu loạn sự phát triển của sự ninh tịnh trừ phi dùng công phu thiền định thì mới có thể khắc phục những nhiễu loạn nầy. Năm loại nhân tố nầy là dục cầu, ý chí xấu, lười biếng và chậm lụt, không trầm trước và lo lắng, hoài nghi. Đức Phật cũng đã chỉ dạy 7 loại nhân tố của Khai ngộ để có thể bồi dưỡng trí thức và đổng kiến của chúng ta, đó là : chánh tư duy, truy cầu Phật Pháp, tinh thần, hỷ lạc, ninh tịnh, thiền định và trấn định (bình tĩnh). 

 Sử dụng năng lực tri nhận của nhân loại để tịnh hoá tri giác và tư khảo của chúng ta thì sẽ hiện ra một khuôn thiết kế của cấu tưởng trị liệu tâm lý học. Vì thế, Đức Phật dạy : Đối với tâm lý học thì sự tri nhận trên phương diện thể hệ trị liệu cần phải đặt ở vị trí trung tâm

ĐỘNG CƠ (MOTIVATION) 

 Động cơ là một nguồn năng lực (source of energy) có trong cơ thể, nguồn năng lực nầy có thể sanh ra hành động, khiến nó đạt thành một loại khuynh hướng của mục tiêu nào đó. Động cơ có thể chia thành hai phần đó là sinh lýtâm lý. Trên phương diện sinh lý thì nó giống như những động cơ thực sắc và tử vong v.v… Trên phương diện tâm lý thì nó như là một giá trị quan thuộc về tín ngưỡng (tôn giáo) v.v… 

 Động cơ của tâm lý học Phật giáo chủ yếu là sự phân tích những phương diện dẫn đến sự bất an, khẩn trương, căng thẳng, nóng nảy, lo lắng, bồn chồn và cảm thọ đau khổ v.v… của nhân loại nhằm đề ra pháp môn bất nhị để hướng dẫn muôn loài đạt đến con đường hạnh phúc, vì thế, động cơ nghiên cứu tâm lý học Phật giáo ba hàm sắc thái trị liệu. Đứng trên quan niệm của tây phương ngày nay để nhận xét thì chữ trị liệu nầy thông thường được dùng để chỉ cho sự chữa trị những người có tật bệnh tâm lý; Nhưng nếu lấy tâm lý học Phật giáo để nói, thì nó được dùng để chỉ cho sự giải trừ tất cả sự xung đột trên mặt tâm lý và sự bất an của nội tại. Kinh điển Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến phương diện động cơ của tâm lý học. 

TÌNH TỰ (EMOTION) 

 Ý của tình tự tức là sự kích động (Arousal), cảm giác (feelings) hoặc trạng thái tình cảm (affective states) mà cũng chính là do sự chuyển biến của phương diện sinh lý nên sanh ra phản ứng hành vi. Tình tự quen thuộc nhất là những tình tự yêu, hận, bi thương, và sung sướng, khoái lạc. Đứng trên mặt nội tỉnh để nói thì tình tựtrạng thái ý thức chủ quan; khác quan mà nói, tình tự là một loại biểu hiện hành vi. Trên phương diện tâm lý học để nói thì tình tự là một loại trạng thái không thăng bằng và kích động, nhưng không thể xem tình tự hoàn toàn như là vô lý tánh. Chúng ta có thể tìm được sự kiện toàn của tình tự luân lý như thương ái, tôn kính, chánh nghĩa cảm, quan tâm chân lý v.v… là những tình tự tự ngã siêu việt (self-transcending emotion), những tình tự nầy đều thuộc những tình tự tốt. Trong giáo lý Phật giáo có một số tình tự có thể được gọi là tinh thần cao quí, đồng tình và từ bi, nói một cách chính xác hơn, không tham lam, không sân hận, không si mê của tâm lý học Phật giáo được cho là nguồn tình tự kiện toàn, tích cựcsáng tạo tánh. Dưới đây chúng ta phân chia một số tình tự đặc biệt như sau : 

Sợ sệt (Fear) 

 Sợ sệt thông thường là chỉ cho sự phản ứng đã gây ra đối với sự vật có mục đích nguy hiểm nào đó. 

 Dục cầu quá mạnh và sự chấp trước đều có thể tạo nên sự sợ sệt. Bởi vì khi chúng ta quyến luyến không thể xả bỏ đối với một số vật quí báu và có giá trị thì chúng ta sẽ sản sanh một loại tác dụng cố chấp, lo lắng và sợ sệt bị mất nó ví như mình yêu thương quá đỗi một người nào đó đến khi người ấy bị lâm bệnh trầm trọng thì tâm lý thương yêu sẽ chuyển thành sợ sệt lo âu. Cũng giống như thế, chấp trước vào tự ngã, danh vọng, quyền lực v. v… đều sẽ sinh ra tâm trạng sợ sệt hay tâm lý khủng hoảng. 

 Mặc cảm tội ác (sense of guilt), khiển trách tự ngã (self-reproach), sợ sệt bị trừng phạt (fear of punishment) và sợ hãi bị đọa xuống địa ngục (fear of lower world) v. v… kinh nghiệm tôn giáo đều sanh ra sợ sệt. 

 Sợ sệt có lúc cùng với ghét hận (thậm chí tự hận) và tình tự bất mãn kết hợp và những lúc như thế thì liền sanh ra “cảm giác phạm tội trên bệnh lý” (pathological guilt) hoặc cảm thức bất an gọi là “ray rứt lương tâm” (uneasiness of conscience). 

 Đức Phật dạy rằng những ai chưa giác tỉnh thì đều có tự ngã trung tâm chủ nghĩa, dục vọng, địch ý và khuynh hướng chấp trước. Đức Phật chủ trương muốn giải trừ tận gốc những đặc chất này thì không cần thiết phải khiển trách tội lỗi quá khứ, bởi vì nếu tự mình khiển trách thì đối với sự phát triển tâm lý có rất nhiều phương hại. Đức Phật cũng đã đề xướng là cần tịnh hóa tình tự để đạt được tâm lý thăng bằng và lành mạnh

Bất an (Anxiety) 

 Bất an là một loại lấy vật không có mục đích làm đối tượng sợ sệt. Đức Phật dạy rằng nguồn cội sâu xa của loại sợ sệt nầy đã được tạo ra bởi sự chấp trước tự ngã. Chuyên gia Phật học Edward Conge gọi nó là “sự ẩn tàng của thống khổ” (concealed suffering). Đức Phật đã khám phá ra loại “con người bất an” nầy (anxious man) lý do là bởi họ không có năng lực để nắm vững chân lý cơ bản “Vô ngã” (Egolessness), cho nên mới dẫn đến sự bất an; chỉ cần liễu giải được “Vô ngã” thì có thể nắm vững được chìa khóa của sự bất an đối với đủ loại hình thức

Khống chế và biểu hiện của sự sợ sệt 

 Huấn luyện tình tự có thể trình bày trên ba phương diện : (1) Phát triển tập quán sát tự ngã đối với trạng thái tình tự của chính mình; (2) Khi tình tự hưng khởi phải tìm cách khống chế sự xuất hiện của tình tự; (3) Phát triển một quan niệm giá trị mới làm cho sự sợ sệt vốn có hoặc phản ứng của sự phẫn nộ không thể tái phát. Như thế, trải qua sự hiểu biết về tự ngã, không ngừng phân tích tự ngã và phản cầu những công phu của chính mình, cuối cùngthể đạt đến hiệu quả đúng như sự dự kỳ (thời kỳ dự trù). 

Thù hận 

 Thù hận cũng là một loại biê/U hiện của tình tự, có các loại phương thức biểu đạt chẳng hạn như tư tưởng (như là ý nghĩ mong cho những người mà mình không ưa thích chết đi), lời lẽ thô lỗ và những hành vi công kích v. v… Trên sự thật, đức Phật đã luôn nhấn mạnhphản đối sự thù hận, thậm chí bao gồm cả những “cuộc chiến chánh nghĩa” (just war) hoặc những “phẫn nộ chánh đáng” (righteous indignation) đối với cá nhân (và đối với xã hội). Đức Phật đã đề xuất sự chuyển biến nội tại (cầu phát triển tâm linh nội tại) có thể thuần phục tâm thù hận để tiến thêm bước nữa, đó là, dùng sự hiểu biết, nội tỉnh và tư tưởng để chế ngự tình tự thù hận, như vậy thì có thể tịnh hóa tự ngã mà đồng thời cũng có thể làm cho xã hội phát triển một cách hài hòa. 

Đau khổbi thương 

 Trên cơ bản, đau khổbi thươngtình tự phản ứng đối với “biệt ly”, ngoài ra như “mất mát” cũng sẽ đưa đến đau khổbi thương. Bởi vì đối với người chí thân, chúng ta đều xem họ như là một bộ phận của chính mình, một khi họ mất đi, ta sẽ sanh ra tình tự đau khổbi thương, Sigmund Freud gọi nó là “Bi thương và cưu mang” (lo lắng, ray rứt, thắc mắc trong lòng) “Mourning an Melancholoy”. Với Phật giáo thì đối với sự kiện của mục đích nào đó làm sản sanh sự tập trung tinh thần (cathexis) của tình tự mãnh liệt cũng chính là lúc chấp trước và, một khi mất đi đối tượng mục tiêu thì sẽ hiện ra trạng thái trống vắng hoang vu, khổn nhiễm tâm lý, tình tự tội ác cảm, bơ phờ, tự thương hại và tô một lớp âm ảnh màu xám lên các loại tình cảm bi thương

 Đối với bi kích bi thươngđau khổ nầy, “Tứ Diệu đế” và “Bát Chánh đạo” trong trong giáo nghĩa Phật giáo có khả năng làm phương thuốc trị liệu hữu hiệu. Thái độ của Phật giáoyêu cầu nhân loại hiểu rõ về chân thật cảm của sự tướng để thay thế cho tình tự bi thống quá độ

Ái và từ bi 

 Ái (Love), trên danh tự bằng Anh ngữ đã không mấy rõ ràng và rất mơ hồ, trong văn tự Hy Lạp nếu dùng tiếp đầu ngữ “eros” là biểu thị cho ái dục trên cảm quan, và nếu dùng “agape” thì lại biểu thị về ái đối với phương diện tâm linh

 Sự truy cầu của Phật giáo là một loại giá cấu luân lý (ethical framework) và sự hy cầu của lãnh vực tinh thần, vì thế trên phương diện luân lý Phật giáo đối với quan hệ nhân loại thì không phù hợp với ái dục của đạo đức, không phù hợp với dục cầu tiết chếtrụy lạc của đạo đức cảm, vì những thứ ấy đều bị cho là tà ác, bởi lẽ những thứ nầy đủ để gây nên những đọa lạc của xã hội, nhưng, chỉ có sự hiếu thuận và kiền thành đối với tôn giáo mới khả dĩ hình thành một cách cơ bản một xã hội lành mạnh. Người xuất gia đối với vấn đề ái dục cần phải dẹp trừ, vì lẽ ái dục có thể đưa dẫn đến sự bất anđau khổ đồng thời làm phương hại đến tinh thần hy cầu. Cái mà Phật giáo muốn truy cầu đó là một loại tình tự của sáng tạo tánh và tình tự của phản ứng đồng tình tự nhiên để quan tâm đến chúng sanh

TÂM LÝ HỌC KHÁT CẦU (PSYCHOLOGY OF CRAVING) 

 Đối với phương diện tâm lý học tình tự thì gồm có 3 loại hình thức khát cầu, đó là khát cầu thỏa mãn cảm quan, khát cầu bảo tồn tự ngã (self-preservation) và khát cầu hủy diệt và công kích. Ba loại khát cầu nầy đối với bản năng xung động (libido), tự ngã bản năng (ego instinct), và bản năng tử vong của Sigmund Freud đã có sự thống nhất. Xin được chia thành như sau : 

Dục tánh (Sexuality) 

 Thường, Phật giáo chỉ dùng cảm quan (như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và bao quát hơn so với tâm lý học Tây phương (Phật giáo đề cập đến ngũ quan, nhưng tâm lý học Tây phương thì chỉ thiên nặng về mặt dục tánh, nhất là Phiến tánh luận của Sigmund Freud). 

 Đối với vấn đề truy cầu nguyên tắc khoái lạc (hedonism) của cảm quan, Phật giáo đã đưa ra hai phương pháp nhận thức : (1) Truy cầu cảm quan khoái lạc sẽ mang lại sự bất hạnh; (2) Thủ đoạn truy cầu cảm quan khoái lạc (hợp pháp và không hợp pháp), nếu hợp pháp thì cần phải suy tính đến việc không thể thái quá, đồng thời không phá hoại nguyên tắc khoái lạc làm điều kiện

 Phật giáo cũng cho rằng sự truy cầu khoái lạc của cảm quan chỉ ở bên dưới của sự tuần hoàn ác tánh của “nhu yếu, khẩn trương và thỏa mãn” (want tension and satisfaction) xuyên qua sự truy cầu của đau khổ mà thôi; vì thế, Phật giáo chủ trương dùng bát chánh đạo để chế ngự sự truy cầu của cảm quan khoái lạc. 

Bảo tồn sự tự ngã 

 Đây là một loại thành kiến sai lầm của sự ngã trung tâm chủ nghĩa, hoàn toàn đặt nơi giả định sai lầm (tín ngưỡng) tức tự ngã thực tại vĩnh tồn (ego-entity). Nhân cách kết cấu của nó là nhắm vào ba loại : Khát cầu, vọng tưởng và giả tưởng như sau : 

 Khát cầu – Đây là của ta. 
 Vọng tưởng – Đây là ta. 
 Giả tưởng – Đây chính là tự ngã. 

 Nhưng, Phật giáo cũng biểu thị một cách rõ ràng, nhu yếu của cơ bản duy sanh như không khí trong lành, nước, thức ăn, ngủ nghĩ v. v… chẳng hạn, đều được xem như là một loại biểu hiện của sự khát cầu. 

Tự ngã hủy diệt và công kích 

 Đối với phương pháp quan sát về tự ngã hủy diệt và công kích, Sigmund Freud cho rằng nó là một loại bản năng xung động; nhưng, Đức Phật thì lại dạy rằng nó là một loại hành vi phản ứng tánh. Khi một loại tình tự thù hận (đối với người hoặc vật) ở thế giới ngoại tại không được phát tiết thì nó lại hướng ngược về mình, vì thế nên sản sanh sự thọ hình tự ngã (khổ hình) và tự sát. Đức Phật đã quở trách sự phát sanh của 3 loại hình thức khát cầu trên đây và cho rằng vì do không hiểu rõ đạo lý khổ đau của nhân sinh nên tạo thành; đồng thời, đối với vấn đề thống khổ của nhân sinh vì thiếu công phu nội tỉnh nên tùy tiện tòng phục vào sự mê hoặc tự ngã và, kết quả là đưa dẫn đến những bi kịch.

TIỀM Ý THỨC ĐỘNG CƠ (UNCONSCIOUS MOTIVATION) 

 Tiềm ý thức động cơ là nói về sự thúc đẩy khiến cho con người tạo ra một thứ động tác nào đó nhưng lại không giác sát được động cơ chân chính (real motive) sở tại. Thông thường tiềm ý thức bị ký ức và tình tự áp bức, nhưng có thể là từ trong giấc mộng, thất ngôn, ảo giác, và trong những chứng trạng tâm lý thất thường để thuyết minh sự tồn tại của động cơ tiềm ý thức

 Quan niệm về tiềm ý thức của tâm lý học Tây phương được sáng tạo bởi Sigmund Freud, và người học trò của ông là Carl Jung lại khai sáng ra thuyết “Tập thể tiềm ý thức” (Collective unconsciousness), Carl Jung cho rằng tiềm ý thứccá thể. Tiềm ý thức (personal unconsciousness) tức là một số tâm lý cá thể nào đó bị áp chế hoặc bị sự bỏ quên; ngoài ra, còn có loại khác tức là tập thể tiềm ý thức, đó là chỉ cho tâm lý con người ngay khi vừa chào đời vốn đã sẳn có một loại trạng thái tâm lý phức tạp, Carl Jung gọi đó là “nguyên hình” (archetypes), nó là quan niệm văn hóa được truyền thừa từ đời này qua đời khác bởi tổ tiên của chúng ta, những kinh nghiệm đều được bảo lưu trong tiềm ý thức cá thể của chúng ta; một cách rõ ràng hơn, theo sự giải thích của Carl Jung thì nhân cách được cấu thành bởi 3 loại thành phần : Tự ngã, cá thể tiềm ý thức và tập thể tiềm ý thức. Tập thể tiềm ý thức là nguyên hình của bề sâu. Căn cứ theo thuyết của Carl Jung thì tập thể tiềm ý thức vốn có sẳn tố chất di truyền, làm cho cá thể và người của đời trước trên phương diện tri nhận về thế giới, có cách nhìn tương đối giống nhau. 

 Như nhân loại ở vào thời kỳ rất sớm đã lo sợ sự hắc ám, vì đen tối sẽ mang đến nguy hiểm; ngày nay, loại nguy hiểm này mặc dù đã biến thành quá khứ, nhưng nhân loại vẫn còn sợ hãi sự đen tối. Khái niệm tánh phổ biến hãi sợ của tập thể tiềm ý thức hoặc ánh tượng được gọi là nguyên hình. Nguyên hình là kinh nghiệm của tình tự đã đến từ bộ óc của sự truyền thừa tiến hóa. Như nguyên hình của người mẹ hiền từ xưa đến nay vẫn là biểu thị cho sự ấm áp, bảo bọc, dưỡng dục, mà cũng còn là sự tượng trưng cho ái mẫu; nguyên hình người cha là lực lượng, quyền oai và tượng trưng cho quyền lực. Những nguyên hình khác như ánh tượng nữ tính (anima), ánh tượng nam tính (animas), tự ngã (self), anh hùng, thần, sanh, tử v. v… cũng đều như thế cả. Thứ quan niệm nầy hơi giống với quan niệm A Lại Da thức hoặc chủng tử thức của Phật giáo (storehouse consciousness). 

 Dòng ý thức của Phật giáo (Stream of consciousness) cũng liên quan với tiềm ý thức động cơ. Phật giáo dạy chúng ta rằng nếu có khả năng tu tập kỹ thuật thiền định thì có thể sử dụng lớp trong của tiềm ý thức đen tối để tạo ra thành sự phát triển nhân cách một cách kiện toàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1582)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1476)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1335)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1388)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1715)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1979)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2032)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1476)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1563)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1392)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2913)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1378)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1411)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1733)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1683)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1608)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1408)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1569)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1446)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1434)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1523)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2206)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1553)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1514)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1847)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1537)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1419)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1675)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1715)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2393)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1476)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1964)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1683)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1764)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1622)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1957)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1687)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1443)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1732)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1585)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1551)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1301)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant