Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5 Nguyên Lý Tâm Lý Học Phật Giáo Và Bệnh Lý Xã Hội Đương Tiền

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4589)
Chương 5 Nguyên Lý Tâm Lý Học Phật Giáo Và Bệnh Lý Xã Hội Đương Tiền

CHƯƠNG V
NGUYÊN LÝ TÂM LÝ HỌC PHẬTGIÁO
VÀ BỆNH LÝ XÃ HỘI ĐƯƠNG TIỀN


SỰ CẢI QUAN CỦA TÂM LÝ TRỊ LIỆU 

 Rollo May thảo luận đến “vấn đề khu vực” (problem areas) khi biến đổi một cách trọng đại trên phương diện Bệnh Lý Học tâm lý, ông đã giác sát đến 20 thế kỷ của thời kỳ đầu tiên, sự chú trọng đến vấn đề khó khăn của con người ngay trên phương diện bản năng, nhất là vấn đề phương diện tánh đã chiếm cứ toàn thể tâm tư của Sigmund Freud. Otto Rank và Alfred Alder thì biến đổi hứng thú đối với sự chuyên môn nghiên cứu vấn đề tự ti cảm, tội cảm và vấn đề không thích đáng trên mặt tinh thần. Chủ đề của nữ tướng của tân phái Sigmund Freud, bà Karen Horney, thì lại đặt trên sự xung đột cá thể và đoàn thể. Điểm nóng bỏng chủ yếu trong đời sống hiện nay thì lại đặt trên vấn đề bất an, cô đơn quạnh quẽ (loneliness) và trống rỗng hoang vu (emptiness). 

 Rollo May đã từng bảo : “Vấn đề của hiện tại không nằm ở chỗ xã hội cấm kỵ về hoạt động tánh hoặc là tội cảm của bản thân tánh mà trên thực tế nếu đối với rất nhiều người để nói thì tánh là kinh nghiệm, cơ giới thức là trống không và vô mục đích. Ông ta còn nêu rõ ràng loại “nội tâm trống vắng” nầy không nên chỉ giới hạn ở phòng chẩn đoán của bác sĩ tâm lý trị liệu mà nên sưu tập thêm nhiều tư liệu xã hội học để chứng thực một cách rộng rãi sự tồn tại của hiện tượng nầy. 

 Bệnh lý xã hội ngày nay như đã được đề ra với kiện tướng tân học phái Sigmund Freud là Erik Erikson đó là nguy cơ đồng nhất, đồng dạng (identity crisis) tức trong 8 giai đoạn (từ nhỏ đến già) của sự phát triển nhân cách, cá thể cần phải đạt thành đồng nhất cảm một cách chánh diện (như tự ngã xác nhận, thành tựu kỳ vọng, tánh đồng nhất v.v…), nếu không nhiễu loạn vai trò của cá thể, thì cũng sản sanh ra sự xa lìa, cách biệt (bệnh tinh thần) (alienation). Cái gọi là sơ ly (mối bất đồng, sự xa lánh) chính là lúc không thể nào giải quyết được nguy cơ đồng nhất, nên bèn sanh ra sự không tín nhiệm người khác, vô năng cảm v.v… do vậy lại càng cho rằng thế giới chung quanh là hiện tượng lạnh buốt như băng và đây chính là điểm đặc sắc của sơ ly (sự xa lánh). Học thuyết Erik Erikson đã không chỉ là tâm lý học mà còn có thêm xã hội học, quan điểm và sắc thái của nhân loại học… 

CÁ THỂ CỦA VÔ BIỂU TÌNH TRONG THẾGIỚI BIẾN THIÊN 

 Trong xã hội hiện đại và dưới thể chế kinh tế, vi phản nhân tánh là một sự kiện rất rõ ràng : cơ giới hóa và phân công lao lực đã khiến cho công nhân trở thành nô lệ một cách máy móc, công tác biến thành đon điệu, phiền chán và không có mảy may ý nghĩa nào. Sự hứng khởi to lớn của công xưởng được vận tác dưới thể chế quan liêu, công tác tập quán của cơ giới thức đã làm cho công nhân cảm nghiệm một cách sâu sắc về tâm bất xứng đối với công việc của chính mình. Thêm vào đó sau khi bị đô thị hóa, sinh hoạt của đô thị bị rơi vào tình trạng khẩn trương, thiếu an lạc, lưu động dời đổi luôn luôn đã khiến cho con người hình thành cảm giác vô cănvô năng

 Thiếu mục tiêu nội tại để chỉ đạo sinh mạng cá thể đã khiến cho cách điệu sinh mạng của sự không chân thật dẫm nát tâm linh. Thường xuyên cự tuyệt nhận thức của chính mình, khiến sự trưởng thành của tự ngà nhận (self-knowledge) bị cản trở. Thiếu tự ngã nhận thức và tự ngã hướng đạo (self-direction) là đặc sắc của con người hiện đại của chúng ta. Tình thế nầy, không những chỉ sáng tạo ra một loại nhân cách lẻ nát và thương tàn, mà còn khiến cho chúng ta và người khác trong vấn đề kiến lập sự quan hệ ấm áp sẽ biến thành ảnh bọt (bèo bọt và hình bóng), vì thế khiến cho con người biến thành một loại người bệnh thái của đạo hình (other-oriented). Do sự cạn cùng trống vắng của nội tại và vì để trốn tránh một nội tại trống hoang nên đã khiến cho con người hướng theo người khác và có ý đồ tìm đến những nơi cần viện trợ, nhưng, kết quả là cả hai bên đều trống rỗng, đây chính là đô thị bệnh thái (sick cities) của tâm cảnh nhân loại

 Cá thể, xã hộikhông gian tâm lýxã hội đã sáng tạo là một loại bệnh thái xã hội, cho nên tâm bệnh lý học (vốn là để chữa trị những người có hành vi đặc thù thất thường) hiện tại cần phải mở rộng cơ sở và cải biến mục tiêu trị liệu

NGUY CƠ ĐỒNG NHẬN DƯỚI SỰ PHÂN TÍCH TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

 Phật giáo đề ra hai phương diện để nhận xét
Gia tăng trùng kiến “người chân chính” (authentic person), vì con người xã hội hiện đại thiếu tự ngã nhận thức và tự ngã hướng đạo. Do vậy chủ trương làm cho con người có được sự thâm tỉnh của Phật giáo có thể ứng hợp với nhu cầu của con người hiện đại, hơn nữa, chủ trương nầy của Phật giáo có thể phối hợp lẫn nhau với Tâm lý học nhân tính và Tâm lý học tồn tại
Ứng dụng của tâm lý học Phật giáo, tức là dùng quan điểm vô ngã để đối phó với nguy cơ đồng nhận, dùng vô ngã để phá trừ tự ngã lân ái (self-love), tự ngã ghét hận (self-hatred), tự ngã trừng phạt (self-punishment) và tự ngã chấp trước (ego-attachment) v.v… 

TỰ LUYẾN (NARCISSISM) 

 Căn cứ theo Orrine Klapp thì sau khi kiểm nghiệm có sự liên quan đến chứng trạng cộng đồng của vấn đề đồng nhận đã chỉ rõ : Tự ngã quan tâm quá đáng với tự luyến là khởi nhân của vấn đề nhận đồng. Tự luyến phát nguồn ở câu chuyện của một nhân vật thần thoại Hy Lạp là Narcissus đã ôm bóng hình của sự tiếc thương và gieo mình xuống nước. Sigmund Freud lợi dụng câu chuyện nầy để giải thích về tâm lý bệnh hoạn đối với sự chấp trước bệnh lý bản thân. Người tự luyến không những đối với thân thể mình cảm thấy kiêu ngạo, mà còn phát triển ý đồ cố chấpđịa vị xã hội, tài sản, phong thượng, khái niệm và ý thức hình thái. Đức Phật từng dạy tôn giả A Nan (Ananda) rằng : “Do bởi thân thể nên dẫn lên giả tưởng ngã và cảm giác, tri giác, hoạt độngý thức khác, đây là do ở giả tưởng hữu ngã mà suy diễn ra”. 

 Ngoài ra, tự hận (self-hatred) là phản ứng được tạo tác bởi tiêu trầm và ưu uất đối với tự luyến, là mặt phủ định của tự luyến. Tự hận cũng có thể nói là “Đồng nhận tuyệt vọng” (Identity despair), thông thường xảy ra ở thời kỳ cuối cùng của sinh mạng. Đồng nhận tuyệt vọng có thể đưa đến việc tự sát, rất nhiều người cũng đã trải qua một loại liều lĩnh tuyệt vọng một cách lặng lẽ (quiet desperation). 

CÔ ĐƠN, CÔ TỊCH (LONELINESS) 

 David Riesman trong sách “Quần chúng Cô Đơn” (Lonely Crowd) đã đề cập đến tình trạng nhân loại bị cưỡng bách xã giao tánh (compulsive gregrariousness) như tham gia câu lạc bộ và những tình hình cuồng nhiệt để bù vào những hoạt động trong lúc hư nhàn. Chúng ta có thể phát hiện được hiện tượng quái gỡ của nhân loại đó là sự trốn chạy tự ngã và ý đồ gia nhập đoàn thể có hành vi hành liệt. Rollo May cho rằng loại bệnh lý nầy là hành vi ngoại đạo hình (other-oriented), là hành vi được tạo tác bởi sự hãi sợ đối với sự cô đơn của nhân loại

 Căn cứ theo sự phân tích của Phật giáo thì có sự khu biệt giữa “cô tịch” (being lonely) và “đơn độc” hoặc “cô độc” (being alone) đã không có năng lực đi qua kinh nghiệm cô độc và không thích nghỉ ngơi một mình là do e sợ sự đơn độc. Bản thân cô tịch gồm có những phương diện như : cô lập dưới sự chế ước của văn hóa, nỗi cô tịch vì mất sự tôn trọng của người khác, trạng thái cô đơn dưới sự ép buộc của bệnh tật v.v… Tình trạng trốn tránh tự ngã là hình thức cô tịch đối với sự so sánh thông thường. 

 Phật giáo cho rằng kinh nghiệm cô độc là sự tầm cầu phương thức nội tỉnh tôn giáo một cách sâu sắc, loại kinh nghiệm nầy có sự khác biệt với nhu cầu cô độc nên thân cận với sơn thủy tự nhiên. Người xuất gia độn ẩn, người tại gia thiền định thực tiễn và phân tích tự ngã, hưởng thụ một thứ diệu lạc độc xứ đó là điểm Phật giáo tán thán, bởi vì sinh hoạt thiền định có thể giúp làm phong phú thêm đối với sự quan hệ xã hội giữa người và người và đồng thời cũng để con người càng có được thâm kiến và phát hiện được ý nghĩa của sanh mạng càng có thể phát huy được tác dụng tinh thần thì có thể xa lìa được sư cô liêu và phiền chán. 

 Phật giáo lại đề ra một loại kiến giải khác : Trên xã hội, cần kiến lập sự quan hệ nhân tế thành thục về sự tôn kính lẫn nhau và quan tâm đến người khác. Nhưng, quan hệ của loại nhân tế nầy và sự chung sống lẫn nhau và nương tựa vào nhau để hoạt động của bệnh thái ngoại đạo hình đã có sự khu biệt. 

CẢM TÍNH VÀ PHIỀN CHÁN (SENSUALITY AND BOREDOM) 

 Sự truy cầu khoái lạc cảm quan và sự truy lạc bại hoại nhân tánh của tính sinh hoạt đều có thể khiến cho nguy cơ đồng nhận thăng tiến; nhưng, phát triển một loại cách điệu sinh hoạt Phật giáo (Buddhist life-style) mới là nhiệm vụ chính yếu đối với hiện tại

 Theo đuổi sự biến thiên nhanh chóng, không ngừng tầm cầu sự biến hóa, và sau đó thì phiền chán, ảo diệt, có thể tìm thấy trong sách “Hoặc Đây Hoặc Đó” (Either Or) tác phẩm của Soren Kiekegard, Don Juan - người anh hùng của sắc tình lãng mạn trong câu chuyện truyền kỳ của Tây Ban Nha, là nhân vật đại biểu cho một loại hình khác, ông ta được quy loại là nhân vận thuộc sắc dục hình (lustful type). 

 Người thanh niên hiện đại, sau khi đuổi theo những âm thanhhình sắc, kế đến là phát hiện rằng sự quan hệ của nhân loại đã và đang thiếu vắng sự quan tâm chân chính về ái tình và mức độ thân thiết. Nhưng, từ trong đồng nhận tánh đã thấy được tâm lý học nhân tánh và luân lý học của Phật giáo rằng là chúng a có thể được thương yêu một cách chân chính, lương thiệntôn kính với tâm từ bi sâu xa vô lượng

 Kết quả theo đuổi của Don Juan sẽ sanh ra sự phiền chán, ưu uất, đau khổtuyệt vọng; vì vậy mà bảo rằng lý tưởng của Don Juan không thể biến thành triết học nhân sinh trường kỳ một cách thống nhất (consistent pholosophy of life). Phiền chán là một chứng trạng sâu nặng nhất trong vấn đề đồng nhận ngày nay. Phiền chán gồm có hai loại đó là do mục tiêu đặc thù gây nên (như hí kịch, sách vở v.v…) và không có mục tiêu nào cả, và đó là sự phiền chán được dẫn phát từ chính mình. Nếu chúng ta có thể dùng nội tỉnh để nắm vững cái “rỗng tuếch của vô danh” (nameless emptiness) nhằm tiến vào cửa ngõ trí tuệ thì có thể khắc phục tất cả một cách triệt để

TIÊU CỰCTÍCH CỰC ĐỐI PHÓ VỚI TRỐNG RỖNG 

 Trống rỗng, phiền chán, cô đơn, cô tịch và ọe mửa nội tại đã biến thành nghệ thuật và văn học cho đến ngay cả trong bộ phận lãnh vực của triết học đương kim. 

 Phật giáo đối với kinh nghiệm của không vô cùng đã thái dụng lấy hai loại phương pháp, đó là phủ định để đối phó với trống rỗng và phiền chán. Một loại khác là tích cực dùng Nội Tỉnh Pháp để liễu giải một cách rốt ráo rằng tính chất của thực tạihoàn toàn không có bản chất nội tại, không có kinh nghiệm của tự ngã vĩnh hằng và tâm linh đối với không tánh

 Do sự nghèo nàn của nội tại mà con người hiện đại đã không có đủ năng lực để biến đổi tánh tiêu cực thành tánh tích cực nhằm tiến tới quán sát một cách thấu suốt tính chất của thực tại

 Tự ngã và không vôchủ đề trung tâm của giáo nghĩa Phật giáo, chuyên gia Phật học Edward Conze đã từng bảo rằng không tánh theo Phạn văn “sùnya” cũng có ý nghĩa là nở lớn (trướng đại) (svi or swell), tức là nhìn từ ngoại biểu của một vật và đưa dẫn đến sự trướng đại; nhưng, nội bộ thì lại là Không. Đứng trên thuật ngữ Phật học để nói thì Ngũ Uẩn thuộc bộ phận ngoại biểu (biểu lộ bên ngoài) nở lớn nhưng bên trong thì hoàn toàn vô ngã, là Không. 

 Chỉ khi nào đi sâu vào thực tại mới liễu giải được một cách trọn vẹn nhân sinhthống khổquan niệm về vô ngã, và, như thế chúng ta mới có thể vượt qua tâm thức phiền chán tiêu cực và bệnh trống vắng, KHÔNG VÔ của thời đại một cách rốt ráo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3497)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4523)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4578)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7351)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2970)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4229)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3691)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5070)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6695)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4130)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5345)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3792)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4539)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3561)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4396)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3847)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3879)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3844)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4647)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6118)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4830)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3656)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4051)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4593)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3150)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4563)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4303)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4499)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4608)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7229)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5215)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4600)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5620)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4885)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5495)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5625)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant