Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại Ý “Triệu Luận”

16 Tháng Chín 201421:58(Xem: 15134)
Đại Ý “Triệu Luận”

 

Đại Ý “Triệu Luận”

Tô Quân – Thích Nữ Dũng Liên dịch
(trích từ Phật giáo tam bách đề)

---o0o---



Mục Lục

I. CUỘC ĐỜI TÁC GIẢ

II. ĐẠI Ý “TRIỆU LUẬN”

1. Tôn bổn nghĩa

2. Vật bất thiên luận

3. Bất chân không luận

4. Bát nhã vô tri luận

5. Niết bàn vô danh luận

III. ĐỊA VỊ VÀ SỰ CỐNG HIẾN CỦA TĂNG TRIỆU

 

---o0o---

I. CUỘC ĐỜI TÁC GIẢ

“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo. Thời gian khoảng giữa đời Lương và đời Trần (Nam Triều) biên soạn thành tập gọi là “Triệu Luận”.

Tăng Triệu họ Trương, người Trường An, Kinh Triệu (nay là thành phố Tây An), sanh vào niên hiệu Thái Nguyên thứ 9 Hiếu Vũ Đế đời Đông Tấn (384), viên tịch niên hiệu Nghĩa Hy thứ 7 đời vua An Đế (414). Thời niên thiếu ham mộ tư tưởng Lão Trang, sau đó nhân đọc kinh Duy Magiác ngộ xuất gia. Sau khi xuất gia đọc tụng kinh, luận Phật Giáo đại thừa, thông hiểu kinh điển ba tạng kinh, luật, luận. Năm 20 tuổi trở thành nhà lý luận Phật Giáo nổi tiếngTrường An. Không bao lâu, Ngài Cưu Ma La Thập đến Cô Tạng (nay là huyện Vũ Uy Cam Túc), Tăng Triệu từ ngàn dặm xa xôi đến lễ La Thập làm thầy, theo La Thập tu học nghĩa lý Bát nhã học và được Ngài La Thập tán thán khen ngợi. “Triệu Luận” là quyển luận Phật Giáo về tư tưởng Bát nhã do Tăng Triệu trước tác trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. 

---o0o---

II. ĐẠI Ý “TRIỆU LUẬN”

“Triệu Luận” gồm có 5 thiên : 

Tôn bổn nghĩa, Vật bất thiên luận, Bất chân không luận, Bát nhã vô trí luận, Niết bàn vô danh luận.

1. Tôn bổn nghĩa

Nội dung chủ yếu của “Tôn bổn nghĩa” là giải thích danh, tướng của Bát nhã học, cho rằng các khái niệm như : Bổn vô, Thực tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội v.v... danh, tướng tuy sai khác nhưng nghĩa lý thì tương đồng, và cho rằng chỉ có xem “tánh không” thành “chư pháp thực tướng”, mới có thể chính xác lý giải giáo nghĩa Phật giáo

---o0o---

2. Vật bất thiên luận

Chữ “thiên” có nghĩa là “thay đổi”, “vận động”. Người thường nhìn thấy sự vật “sanh tử đổi thay, đông đến hạ đi” bèn cho rằng sự vật là vận động. Đối với vấn đề này Tăng Triệu cho rằng : Cách nhìn sự vật vận động, trên thực tế chỉ là một kiến thức sai lầm. Vạn sự vạn vaät, nhìn từ bề mặt tuy là vận động, thực tế không phải là sự vận động trung thực, cái gọi là vận độnghư ngụy giả tạo. Nhưng điều đó hoàn toàn không phải nói là sự vật tịnh chỉ. Sự vật tuy không phải là vận động, nhưng cũng không phải là tuyệt đối tịnh chỉ, cái gọi là tịnh chỉ cũng là hư vọng. Tăng Triệu cho rằng : Tất cả vạn vậttuy động mà thường tịnh, không bỏ động mà tìm cầu cái tịnh, tuy tịnh mà không lìa cái động, động và tịnh chưa từng có sự sai khác”, động tức là tịnh, tịnh tức là động, động tịnh nhất như. Cách nhìn này chính là sự biểu đạt tư tưởng Trung Quán Phật giáo đại thừa. Ngài Long Thọ trong “Trung Luận” đưa ra : Tất cả vạn phápBất sanh diệc bất diệt, bất thường diệt bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất” (xuất cũng có thể gọi là khứ). 

Dịch : 

Không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không một cũng không khác, khoâng đến cũng không đi.

“Vật bất thiên luận” của Tăng Triệu chính là sự biểu đạt cụ thể đối với câu “bất lai bất xuất (khứ)”. 

---o0o---

3. Bất chân không luận

“Bất chân không luận” là thuyết minh cụ thể của Tăng Triệu đối vơùi Bát nhã không quán, đối với đề mục “Bất chân không” Tăng Triệu giải thích rằng : “Các pháp hư giả nên gọi không chân thật ; hư giả không thật cho nên là không”, không cũng chính là nói, tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợpsanh khởi, vọng tưởng hư huyễn không thực, là một sự tồn tại không chân thực, nên gọi là “bất chân”. Về mặt khác, do vì các pháp không chân thật, đều do nhân duyên giả hợp mà có, nên nói là bổn tưï tánh không. Kỳ thực “bất chân” tức là “không”, “không” tức là “bất chân” ; “không” và “bất chân” không phải là hai khái niệm đối lập mà là đồng nhất. Phát xuất từ nhận thức này, Tăng Triệu đã tiến hành phê bình “lục gia thất tông” là các nhà các tông Bát nhã học nổi tiếng thời đó. Từ nội dung của bộ luận này có thể thấy rằng: Tăng Triệu đối với giáo nghĩa “Duyên khởi tánh không” do Long Thọ đề xướng, có lý giải vô cùng chính xác và sâu sắc. 

---o0o---

4. Bát nhã vô tri luận

“Bát nhã vô tri luận” là bài luận quan trọng của Tăng Triệu được hoàn thành sau khi tham gia công trình phiên dịch “Kinh Đại phẩm Bát nhã”, chủ yếu nhắm vào quan điểm Bát nhã hưõu tri tiến hành phê phán, từ đó trình bày đạo lý Bát nhã vô tướng vô tri

Bát nhã là tiếng Phạn, danh từ thường dùng của Phật giáo Ấn Độ, có nghĩa là trí huệ, tức là trí huệ nhận thức chư pháp tánh không. Tăng Triệu cho rằng: Bát nhã thì tuyệt đối vĩnh hằng, có thể chiếu soi tất cả, mà bản thân của nó lại là vô tướng, vô danh, vô tri. Sở dĩ như thế là vì chư pháp vô tướng, nếu có tướng tức là hư vọng, vì thế đối với Bát nhaõ mà nói, không có bất cứ cái gì cần nó phải đi nhận thức. Đó chính là hàm nghĩa của Bát nhã vô tri. Nhận thức luận này đã nói rõ phương pháp Trung Quán của đại thừa Phật giáo không rớt vào có, không lạc vào không, không rơi vào hai bên. Mà tác dụng chủ yếu của nó chính là muốn chúng ta quăng bỏ đi các thứ nhận thứcliên quan đến thế giới thế tục, từ đó tiêu trừ chấp trước, được giác ngộ giải thoát

“Bát nhã vô tri luận” còn bao gồm các bài “Thư hỏi của Lưu Di Dân” và “Trả lời thư của Lưu Di Dân” của Tăng Triệu, thuyết minh về nội dung Bát nhã học

---o0o---

5. Niết bàn vô danh luận

“Niết bàn vô danh luận” chia làm hai phần: 

Phần đầu là “Biểu thượng Tần Chủ Diệu Hưng” cũng gọi là “Thượng Tần vương biểu”, phần sau là bộ luận này. Bộ luận này có người nói do Diệu Hưng trước tác, gồm 9 chiếc 10 diễn, cho nên cũng có lúc xưng là “Niết bàn vô danh cửu chiết thập diễn”. Do vì thể tài, bút pháp, sự thật lịch sử, tư tưởng v.v... nhiều phương diện của bộ luận này có chỗ không giống với các trước tác của Tăng Triệu, nên các học giả cho rằng bộ luận này không phải do Tăng Triệu làm ra. 

Nội dung trung tâm của bộ luận này là thuyết minh thể Niết bàn tịch tịnh hư không , vi diệu vô tướng, không thể dùng ngôn ngữ văn tự biểu đạt, không thể dùng tâm phàm phu thế tục để nhận thức, nó vượt ra ngoài tất cả danh tướng, vì thế Niết bàn chẳng qua cũng chỉ là một loại giả danh mà thôi, nên gọi là Niết bàn vô danh

---o0o---

III. ĐỊA VỊ VÀ SỰ CỐNG HIẾN CỦA TĂNG TRIỆU

Tăng Triệu cuộc đời ngắn ngủi nhưng học thuyết của Ngài chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử Phật giáo Trung Quốclịch sử triết học Trung Quốc

Tác dụng quan trọng này, đầu tiên là biểu hiện trên sự tổng kết và phê phán của Ngài đối với Bát nhã học thời Ngụy Tấn. Trước Tăng Triệu, Bát nhã học Phật giáo Trung Quốc thạnh hành là “Lục gia thất tông”, là: 

1. Bổn vô tông của Đạo An

2. Tâm vô tông của Chi Mẫn Độ

3. Bổn vô dị tông của Trúc Pháp Thâm, 

4. Sắc tông của Chi Đạo Lâm

5. Thức Hàm Tông của Vu Pháp Khai

6. Huyễn hóa tông của Đạo Nhất

7. Duyên hội tông của Vu Đạo Toại. 

Các tông các nhà này là các dòng chủ yếu của Bát nhã học trước thời Tăng Triệu, nhưng giáo nghĩa của lục gia thất tông tuy dùng tên Bát nhã học, nhưng thực tế khách quan mà nói, tư tưởng của các tông này bao hàm màu sắc huyền học của thời Ngụy Tấn vô cùng sâu đậm, đối với nghĩa lý Bát nhã đại thừa có một số lý giải sai lầm, hoặc thiên nặng về không, hoặc thiên nặng về sắc, hoặc thiên nặng về tâm, không thể lý giải chính xác đạo lý duyên khởi tánh không của Bát nhã học: Có tức là không, không tức là có, không và có chẳng phải một chẳng phải hai. 

Tăng Triệu theo học với Ngài Cưu Ma La Thập đã học được nguyên tắc tư duy biện luận của học phái Trung Quán Phật giáo Ấn Độ, đồng thời dùng học thuyết bản thể tác dụng của huyền học Ngụy Tấn thêm vào kiến giải của mình, đối với lý giải sai lầm của lục gia thất tông tiến hành phê phán, xiển thuật chính xác tinh thần cơ baûn của Phật giáo đại thừa: phi hữu phi không, tức động tức tịnh, tri tức bất tri, thể dụng nhất như, ngã pháp đều không. Giống như học thuyết Trung Quán, Ngài sử dụng phương pháp hai lần phủ định, đối với tất cả sự vật, không thừa nhận tuyệt đối là không cũng không thừa nhận tuyệt đối là có; không thừa nhận tuyệt đối vận động, cũng không thừa nhận tuyệt đối tịnh chỉ; không thừa nhận Bát nhã hữu tri, cũng không thừa nhận Bát nhã vô tri. Đối với chân thực tự tướng của vạn vật mà nói, tất cả tánh chất mà có thể dùng ngôn ngữ văn tưï để biểu đạt là hư giả. Nhận thức này của Tăng Triệu có thể nói là lý giải một cách chính xác giáo lý duyên khởi tánh không của Bát nhã học. Do đó, “Triệu Luận” của Tăng Triệu đã đánh dấu sự kết thúc của một thời đại, tức là kết thúc lục gia thất tông đã chịu sự chi phối của huyền học thời Ngụy Tấn, đồng thời cũng đánh dấu sự bắt đầu của một thời đại, tức là tư tưởng Bát nhã Không tông, bắt đầu thạnh hành trên đất nước Trung Quốc. Chính là từ Tăng Triệu bắt đầu, Bát nhã Không quán mới phổ biếu lưu hành trong tư tưởng Phật giáo Trung Quốc, trở thành lý luận trung tâm của sự phát triển tư tưởng Phật giáo Trung Quốc

Sau đó, Trung Quốc xuất hiện nhiều tông phái, hoặc ít hoặc nhiều đều lấy Bát nhã Không quán làm cơ sở lý luận cho tông phái mình.

Phật học viện Mân Nam – Hạ Môn - Trung Quốc

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8197)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8290)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9155)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 8038)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16247)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15772)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7989)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7992)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8713)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7883)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7482)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9302)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8557)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8604)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11876)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7494)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8268)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11711)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7396)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8990)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8407)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 10023)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9656)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9601)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10547)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10140)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8221)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20244)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8075)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8559)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9410)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9316)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7734)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8355)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8201)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 9023)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8761)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8618)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10180)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8126)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8844)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 9006)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8449)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7606)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7515)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9517)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9878)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8549)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12284)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9623)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7556)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8863)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16881)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 9027)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13246)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19787)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8656)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9223)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8298)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10193)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant