Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Luận Về Ý Nghĩa Từ Sila - Học Xứ

04 Tháng Bảy 201506:39(Xem: 15030)
Tổng Luận Về Ý Nghĩa Từ Sila - Học Xứ

TỔNG LUẬN VỀ Ý NGHĨA TỪ ŚĪLA - HỌC XỨ

Phước Nguyên

Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể. Cho nên, muốn thể chứng bản tánh bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất lai, bất khứ, bất nhất và bất dị của Niết bàn phải đi bằng con đường các học xứ.

Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh: “Nhược nhất thiết chúng sinh sơ nhập tam bảo hải dĩ tín vi bản, trụ tại phật gia dĩ giới vi bản”[1]: Hết thảy chúng sanh khi mới bắt đầu vào biển Tam bảo lấy tín làm gốc; khi sống trong ngôi nhà của Phật, thì lấy giới làm gốc.

Học xứ khởi sinh từ nơi tư tâm sở hay từ nơi ước muốn và thệ nguyện của một người tha thiết khất cầu pháp học xứ để sống đời thanh tịnh. Học xứ ấy là từ nơi hữu tác giới thểthành tựu vô tác giới thể.

Học xứ, tiếng Phạn là Śīla: có nghĩa là học tập theo các điều khoản đạo đức, học tập các điều thiện…chứ không có ý nghĩa cấm đoán, răn đe như các điều răn khắc khe. Hán phiên âm là Thi la và dịch là học xứ, học giới hay phổ thông dịch là giới.

Śīla hay học xứ được giải thích với rất nhiều ý nghĩa:

Tránh xa:

Học xứ có nghĩa là trung đạo, vì tránh xa hai cực đoan ép xác khổ hành và buông lung trong các dục.

Tránh xa khổ hành: Đây là sự tu tập không dẫn đến đời sống an lạcgiải thoát tối thượng.

Tránh xa buông lung trong các dục: Vì đây là sự chạy theo các dục để hưởng thụ khoái lạc, là sự thấp kém và đê tiện, không có an ổn tối thượng, không phù hợp với đời sống cao thượng.

Đức Phật thiết định các học xứ, để thi thiết lối sống tránh xa hai cực đoan ấy và thực hành trung đạo. Trung đạo ở đây không phải là con đường giữa, mà là con đường vượt ra khỏi hai cực đoanép xác khổ hạnhbuông lung theo các dục. Con đường ấy có khả năng dẫn sinh dẫn tới đời sống tịch tĩnh, giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khát ái.

Từ bỏ:

Học xứ có nghĩa là từ bỏ đối với các ác nghiệp hay tà nghiệp như: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ,... Vì vậy, học xứ có nghĩa là từ bỏ các tà nghiệp để dẫn tới chánh nghiệp.

Chánh Nghiệp từ Sanskirt là Samyakkarmānta, Pāli gọi là Sammākammanta. Karmānta của Sanskrit, có động từ căn k: tạo tác, hoạt động, hành động,... Hán dịch SamyakkarmāntaChánh nghiệp; Anh ngữ gọi là Right action, Right occupation,... Từ Samyak: có nghĩa là chính xác, trực tiếp, hợp lý, đích thực, hiện thực,…Hán dịch là: Chánh, Trực. Anh ngữ dịch là: Right. Ở đây từ từ Samyak nên hiểu là hợp lý. Hợp lý ở hai phiên diện: Thân và Khẩu.

Thân cận:

Học xứ có nghĩa là gần gũi với Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến.

Chúng ta cũng có thể nói khác đi, Học xứ gần gũi và đặt nền tảng dẫn đến sự thành tựu giải thoát và Niết-bàn.

Nhiếp hộ:

Học xứ có nghĩa là ngăn ngừa các ác pháp thuộc về thân và ngữ. Không thể ngăn ngừa các ác pháp thuộc về Ý.  Vì ý thì phải dùng định để điều phục chứ không thể dùng giới để ngăn ngừa những điều khoản phi pháp về ý được.

Học xứ có nghĩa là phòng hộ năm căn môn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân khiến năm trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị và xúc, không có khả năng xâm nhập để dẫn sinh nghiệp đạo bất thiện.

Giải thoát:

Học xứ có nghĩa là giải thoát đối với các ác nghiệp đạo thuộc về thân và khẩu. Vì thân và khẩu không tạo tác ác nghiệp, bên cạnh Ý được phòng hộ bởi năng lực của định và khát ái bị kiếm Tuệ chém đứt. Do đó, sanh tử được chấm dứt, khổ đau bị đoạn tận. Nên học xứ được nói là giải thoát.

Thận trọng:

Śīlahọc xứ, phòng hộ các điều phi pháp một cách thận trọng, khiến các sai lầm từ thô đến tế, không có điều kiện sinh khởi làm ảnh hưởng đến đời sống phạm hành thanh tịnh.

Học xứ có nghĩa là thận trọng đối với với các oai nghi, như đi, đứng, nằm, ngồi. Thận trọng từng hành vi nhỏ nhiệm, cẩn trọng tháo gỡ từng sự trói buộc vi tế của thân và khẩu, đang kiềm hãm thân và khẩu trong sự phiền não.

Chế ngự:

Học xứ có nghĩa là chế ngự đối với các ác nghiệp, chế ngự các điều phi pháp thuộc thân và khẩu do tùy theo giới bổn; thế nên, học xứ có nghĩa là chế ngự.

Nâng lên và Gìn giữ:

Từ Sanskrit Śīla được giải thích ý nghĩa tương đương với từ Sanskrit Upadhārana, tiền tố từ Upa: chỉ sự tiếp cận, Dhārana: có nghĩa là thâu tóm, gìn giữ, thâu nhiếp, v.v.. cũng được hiểu là nâng cao, đưa cao. Nên Upadhārana được hiểu với nghĩa là tiếp cận học hỏi để gìn giữ hay tiếp cận học theo để nâng lên.

Tiếp cận học hỏi để gìn giữ, tức là tiếp cận học tập các điều khoản thiện pháp để giữ đời sống phạm hành thanh tịnh.

Tiếp cận học theo để nâng lên tức là tiếp cận học tập theo các điều khoản đạo đức, các điều khoản cao quý, để nâng hành từ những hành vi thấp hèn sang hành vi hợp lý, giải thoát cao thượng, nâng từ sinh tử lên Niết bàn.

Cho nên Śīla được giải thích ý nghĩa tương đương với từ Sanskrit Upadhārana vì nó gìn giữ về các điêu thiện, nếu không có các học xứ thì các thiện pháp hữu lậuvô lậu không có cơ sở để phát sinh.

Thanh Lương:

Từ Sankrit: Śītala có nghĩa là mát mẻ, tươi mát, êm diệu, tinh khiết v.v.. Hán dịch là Thanh lương, Anh ngữ chuyển dịch là Clear and cool; clear, pure v.v..

Học xứ có nghĩa là thanh lương, vì nó làm cho những oi bức khổ đau do thân và khẩu tạo tác lắng xuống, đưa đến sự êm diệu, tươi mát về thân và khẩu. Cho nên Śīla được giải thích tương đương với Śītala Thanh lương.

Diệu hành:

Diệu Hành là dịch từ chữ Sanskrit Sucarita, có nghĩa là việc làm thù diệu, hành động cao thượng.

Học xứ có nghĩa là diệu hành, vì nó có năng lực đưa người hành trì đi đến chỗ cao thượng, rời xa chỗ nguy hiểm đạt đến bình an đích thực.

Tư Tâm Sở:

Theo ngài Vāsubandhu (Thế Thân) thì Tư hay Ý chí (cetanā) có ba loại: Thẩm lự tư, Quyết định tư và Phát động tư[2].

Học xứ hiện diện và khởi sinh từ Tư Tâm Sở của một người có ý chí và phát ra lời nguyện: “Kể từ bây giờ cho đến trọn đời, từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cướp, từ bỏ tà hạnh, từ bỏ vọng ngữ” Vì nó là bảy tác ý, luôn đi kèm bảy trong mười nghiệp đạo thiện, từ nơi một người phát khởi ý chíthệ nguyện trọn đời từ bỏ các hành vi phi pháp trên. Nên Śīla được giải thích ý nghĩaCetanā hay rõ hơn là tư tâm sở.

Tâm sở Thọ, Tưởng và Hành:

Học xứ hiện diệnphát khởi từ tâm sở thọ, tâm sở tưởng và tâm sở hành của một người giữ gìn sự khước từ đối với thân và khẩu.

Hành: từ Sanskrit là Saskāra, Pāli gọi là Samkhara, Saskāra có rất nhiều nghĩa. Nếu nó đi từ động từ căn Sam-skri, thì có nghĩa là đặt vào với nhau, liên kết với nhau. Nhưng nếu nó đi từ động từ căn Sams-kri thì có nghĩa là hành động liên kết, tác động liên kếtSaskāra là hành động có tính liên kết, sự hoạt độngtính cách xông ướp, tập luyện, thường xuyên. Hán dịch Saskāra là Hành, có nghĩa là hoạt động, tác động, vận hành... Theo ngài Budhaghoṣa, thì Hành lấy hoạt động làm tướng, lấy nỗ lực làm dụng, lấy ý chí làm động cơ và lấy vô minh làm duyên[3]

Tưởng: Sanskrit gọi là Sajñā: căn động từ là jñā có nghĩa là: ấn tượng, ý niệm, khái niệm, tư tưởng, hiểu biết v.v..

Kết hợp

Từ Sanskrit Śīlana, có nghĩa là kết hợp, liên kết, nối kết, gắn kết v.v.. Vì Śīla-học xứ, có khả năng kết hợp với thiện nghiệp đạo của thân và ngữ. Nên Śīla được giải thích với ý nghĩa của từ Sanskrit Śīlana.

Không nên vượt qua:

Vì các học xứ là hàng rào ngăn cản tội lỗi, là bờ đê ngăn chặn nước lũ ác pháp. Nếu vượt qua các học xứ, không thi hành, không gìn giữ thì rơi vào điều ác, điều tội lỗi. Chữ “Tội” ở đây phải hiểu là hành động, việc làm … bị bậc Thánh chê trách.

Điểm hội tụ:

học xứ do đức Thế Tôn thiết định từ nơi bản thể Nhất như của Niết-bàn, nên học xứ ấy, là khởi điểm, và là điểm tụ hội của hết thảy thiện pháp.

Đình chỉ:

Các Học xứ có khả năng đình chỉ các hành động phi pháp, các việc làm xấu ác của thân nghiệpkhẩu nghiệp.

Thiện nghiệp

Học xứ có rất nhiều nghĩa, nhưng nghĩa căn bản là thiện, đạo đức, có khả năng phòng hộ hết thảy mọi ác pháp xảy ra đối với thân tâm của một người đã phát nguyện thọ trì.

Luật Nghi:

Từ Sanskrit gọi là savara: phòng hộ, do đi từ động từ căn vs: bao trùm, phòng hộ, ước nguyện,.. Hán  dịch là luật nghi với ý nghĩa là phòng hộ, chứ không phải điều luật cấm cản, khuôn phép ngăn cấm, quy phạm luật lệ v.v.. như một số học giả đã từng giải thích.

Học xứ có khả năng phòng hộ căn môn, hay căn luật nghi, Sanskrit gọi là indriya-saṃvara, Pāli là indriyesu guttadvāro, có nghĩa là: canh chừng cánh cửa nơi các giác quan. Kinh nói: “So cakkhunā rūpa disvā na nimittaggāhī hoti (…) rakkhati cakkhundriya, cakkhundriye savara āpajjati. Sotena (…)”[4]: “Vị tỷ-kheo ấy, khi nhìn thấy sắc, không nắm chặt các hình tướng (…), giữ gìn giác quan con mắt, canh chừng nơi giác quan con mắt”.

Có ba loại luật nghi: căn luật nghi[5], phòng hộ các giác quan; biệt giải thoát luật nghi[6], phòng hộ bằng các điều học giới đã phát nguyện thọ; và vô lậu luật nghi[7], phòng hộ do chứng pháp vô lậu.

Theo Ngài Thế Thân giải thích trong Câu-xá luận: Luật nghi (savara) chính là một loại tư (cetana) có khả năng ngăn chận các hành động xấu và điều phục (savṛṇotti) thân ngữ sau khi được biểu hiện qua việc cương quyết (vidhi) không tạo tác tội lỗi, qua sự phát nguyện giữ giới; vì thế đã dựa vào đó để lập thành luật nghi biệt giải thoát[8]. Và Ngài Thế Thân cũng nói: luật nghi (savara), có khả năng thu thúc (savṛṇoti) và trừ diệt hoặc ngăn chặn dòng tương tục của ác giới (dauḥṣīlyaprabandha)[9].

Học xứ có hai đặc tính phối hợp. Một là làm nền tảng cho định và tuệ; hai là phối hợp với định và tuệ làm sinh khởi các thiện pháp vô lậu, tương ứng với Niết bàn. Học xứnhiệm vụ làm chấm dứt tà hành để thành tựu đức hành, diệu hành, tịnh hành, chánh hành, ứng lý hành, và giải thoát hành.

Học xứ có rất nhiều ý nghĩa như thế nghĩa, ý nghĩa tinh yếu của nó là đình chỉ hành vi phi pháp, ngăn chặn các ác nghiệpthi hành theo các thiện pháp, ý nghĩa căn bản của Học xứ là thiện, đạo đức, có khả năng phòng hộ hết thảy mọi ác pháp xảy ra đối với thân và ngữ của một người đã phát nguyện thọ trì các học xứ ấy[10].

Phước Nguyên



[1] Cf. 菩 薩 瓔 珞 本 業 經 卷 下, 大 眾 受 學 品 第 七 (T25n1485, tr. 1020b06):“若 一 切 眾 生 初 入 三 寶 海 以 信 為 本,住 在 佛 家 以 戒 為 本”.

[2] Sidhikarma, Đại chánh, Thành Nghiệp Luận.

[3] Vism XVII. p.528.

[4] Cf. M.i. 269.

[5] Skt. indrya-savara

[6] Skt. prātimoka-savara.

[7] Skt. anāsravasavara.

[8] Sẽ bàn rõ luật nghi ở một bài khác.

[9] Cf. Câu-xá 14, Đại 29, tr. 72a.

[10] Đến đây là hết phần ý nghĩa của học giới, còn phần bản chất, chức năng, phân khoa của học giới, lợi ích của sự hành trì lãnh thọ học giới, tai hại của sự phá giới, nguyên tắc trì phạm các học giới v.v.. sẽ tiếp tục trình bày cụ thể ở những tiết sau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7843)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9517)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9563)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8076)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10193)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8622)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9080)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8948)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8112)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8860)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25628)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 8969)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14311)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8111)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8519)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11793)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 8977)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10294)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8283)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8904)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9902)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9376)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8117)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9419)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8434)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10877)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9005)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10429)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8222)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10201)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10390)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8930)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8180)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16548)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12228)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12170)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8698)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10118)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8478)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9001)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10293)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8665)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8099)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8675)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7992)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7776)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9490)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8649)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10624)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 12713)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8055)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16612)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6200)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9484)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6966)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7651)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6973)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7641)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22319)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8842)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant