Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận Về Dục - Nguồn Gốc Khổ Đau Của Con Người

23 Tháng Chín 201510:47(Xem: 9375)
Luận Về Dục - Nguồn Gốc Khổ Đau Của Con Người

DỤC LÀ GÌ?
DỤC MANG LẠI HẠNH PHÚC HAY KHỔ ĐAU CHO CON NGƯỜI

Thích Nữ Phúc Thuận

Luận Về Dục - Nguồn Gốc Khổ Đau Của Con Người


Dục là gì? Dục mang lại hạnh phúc hay khổ đau cho con người? Một nhà thơ đã thốt lên rằng:

“Lửa nào bằng tham dục,
Ngục nào bằng tâm sân,
Lưới nào hơn mê đắm,
Sông ái dục nhận chìm”. [5, tr.19]

Thật vậy, trong cái vui của dục, vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái hưởng thụ rất bé mà cái tai họa rất lớn. Đeo đuổi theo những đối tượng của dục, người ta đã không tạo dựng được hạnh phúc chân thật mà còn tạo nhiều khổ đau cho bản thântha nhân. Như vậy, dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Do đó, con người muốn được an vui, hạnh phúc cần phải ly dục

Nhưng ly dục bằng cách nào? Đức Phật dạy, ít ham muốn, bằng lòng với một nếp sống giản dị và lành mạnh để có thì giờ sống sâu sắc từng phút giây của sự sống hàng ngày, có khả năng hiểu biết, thương yêu, chăm sóc và làm hạnh phúc cho những người chung quanh, đó là bí quyết của hạnh phúc chân thật.

Khái quát về dục

1- Định nghĩa

Theo Việt Nam tự điển: “Dục là muốn, lòng tham muốn riêng của mình”. Theo Từ điển Phật học Huệ Quang [6, tr.1125]: Dục có ba tính: thiện, ác và vô ký (không thiện không ác). Dục tính thiện là nguồn gốc phát khởi tâm tinh tiến cần mãn; dục mang tính ác thì thèm muốn tài vật của người khác, gọi là tham, là một trong những phiền não căn bản. Dục có nhiều loại: năm dục, sáu dục, ba dục v.v... Năm dục: say đắm năm cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Sáu dục: say mê sắc đẹp, dung mạo, uy nghi tư thái, giọng nói quyến rũ, làn da mịn màng, tướng người xinh đẹp. Ba dục: ham đắm dung mạo, tư thái, làn da mịn màng.

Theo quan điểm Phật giáo: “Đi đôi với thỏa mãntham dục, cái tâm tìm cầu theo chỗ đòi hỏi được thỏa mãn làm nhân cho sự tái sinh”. [10, tr.132]. Nghĩa là, vì phát tâm mong cầu mà tìm kiếm sự thỏa mãn và vì không được thỏa mãn nên cứ gắng sức tìm cầu mãi cho đến vô cùng, đó là cái nhân dẫn đến luân hồi sanh tử. Tất cả những định nghĩa trên đều nói đến dục vọng làm con người khổ đau.

2- Nguồn gốc của dục

Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp. Trong kinh Đại khổ uẩn, Đức Phật đã chỉ rõ chiến tranh xung đột của con người xảy ra là do lòng tham dục: “Lại nữa này các Tỳ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lợi tranh đoạt với Sát-đế-lợi, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với nhau… Họ bắn nhau bằng tên, đâm nhau bằng dao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm, họ đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử vong”. [9, tr.41].

Tham dục không chỉ giới hạn vào tiền bạc, vật chất danh vọng mà nó bao gồm cả lòng tham muốn có được tình cảm của người khác đó còn gọi là tham ái. Ái là một năng lực tinh thần hết sức mạnh mẽ, luôn tiềm ẩn trong tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Nó chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Con người thường thích chạy theo tiếng gọi của ham muốn như sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon ngọt, xúc chạm êm ái… 

Lòng ham muốn càng mạnh thì chấp ngã, chấp thủ càng mạnh. Đây chính là động cơ, là nghiệp lực dẫn đến tái sinh từ đời này sang đời khác. Như vậy, cội rễ của mọi tệ nạn xã hội như bạo hành, ma túy, xung đột, trộm cướp, chiến tranh… đều xuất phát từ lòng tham lam hay ái dục. Ô nhiễm môi trường, hủy hoại môi sinh, ô nhiễm xã hội bắt nguồn từ nội tâm con người bị ô nhiễm. Và đó chính là nguồn gốc gây ra mọi phiền não khổ đau cho con người trong cuộc sống.

Tóm lại, tham dụcái dục là một năng lực tinh thần hết sức hùng mạnh, luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người, mọi chúng sanh và là cội nguồn của bao nhiêu điều bất hạnh trong đời.

Tác hại của dục đến đời sống nhân sinh

1- Tham dục làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái

Nhân loại hiện nay đang chìm đắm trong cảm thọ, hưởng thụ xuất phát từ những cá nhân, gia đình, xã hộiquốc gia. Sự thách thức và sự ô nhiễm môi trường ngày càng có nguy cơ đe dọa loài người. Với xu thế hiện nay ở các nước công nghiệp hóa, xu thế vét cạn tài nguyên làm hủy hoại môi trường, nhằm thỏa mãn lòng tham không đáy của con người. Công nghệ hiện đại, đặc biệtcông nghiệp gỗ đã phá hoại rừng với tốc độ kinh khủng. Rừng là lá phổi của hành tinh chúng ta. Phá rừng là phá hoại hai buồng phổi của hành tinh chúng ta. Thứ nữa, rừng chính là trợ duyên ngăn bớt những dòng thác tràn xuống đồng bằng nhưng khi rừng bị mất thì lũ lụt và cường độ phá hoại cũng tăng lên, đất bị xói mòn, mùa màng bị phá hoại và nạn đói đe dọa khắp nơi.

Theo thống kê hàng năm tại Việt Nam, rừng bị mất khoảng 200.000ha, trong đó khoảng 50.000ha là do khai hoang để trồng trọt. [14, tr.21]. Thứ đến là sự hủy hoại trên lãnh vực công nghiệp. Hàng năm, trong quá trình sản xuất, các nhà máy đã không ngừng thải ra những chất ô nhiễmđộc hại vào không khí, đất và nước. Ở thành phố Hồ Chí Minh, hàm lượng bụi và chì đã tăng vượt quá 3 đến 11 lần. [4, tr.19). Trong đó, có những chất gây bệnh tật như khí CO2 làm giảm năng suất lao động, gây nhức đầu; bụi chì làm yếu cơ bắp, đưa đến bại liệt và làm biến đổi các chức năng của gan, thận, não… 

Ở các nước công nghiệp phát triển gặp nhiều tai họa và nhất là nhiều căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, bệnh tim, bệnh tâm thần… Tài liệu thống kê chính thức của Mỹ cung cấp những số liệu kinh khủng: một phần tư người dân Mỹ bị ung thư, hàng năm có 800.000 ca ung thư. Nguyên nhân chính gây ra căn bệnh hiểm nghèo ấy không phải do di truyền hay do vi khuẩn mà là do môi trường bị ô nhiễm bởi những hóa chất mang độc tố gây bệnh ung thư.

Tất cả mọi sự phát triển và thành tựu của khoa học chung quy cũng chỉ để thỏa mãn lòng tham của con người. Trong khi chạy theo lợi nhuận bên ngoài, con người không những quên đi sự sống của thiên nhiên, của các loài động vật hoang dã, mà còn quên đi đồng loại và cả bản thân mình. Họ không còn ý thức được ý nghĩa của cuộc sống hạnh phúc với sự đua đòi chạy theo vật chất và cũng không biết rằng giá trị đạo đức con người đang dần dần bị suy thoái.

Từ những tiêu cực vừa nêu trên đủ để phơi bày hiểm họa của sự phát triển và mối nguy hiểm của sự ô nhiễm môi sinh, đã và đang đe dọa đời sống con người trên hành tinh chúng ta. Đã đến lúc con người phải có những biện pháp để bảo vệ môi sinh để ngăn chặn nguy cơ diệt chủng.

2- Tham dục làm ảnh hưởng đến gia đình, xã hội

Để thỏa mãn nhu cầu của tham dục, con người phải nỗ lực tìm kiếm chúng, phải đầu tắt mặt tối, phải vất vả, phải hy sinh. Tuy vậy, con người rất khó thỏa mãn cho dù những mong muốn đó nhất thời có được. Những người vất vả như vậy mà vẫn hai bàn tay trắng không có kết quả gì nên thất vọng buồn phiền. Có những người may mắn hơn, có được những gì mình muốn nhưng phải lo giữ gìn, sợ hãi sẽ mất mát, hao mòn. Do mình có tài sản hay mình muốn tài sản, lạc thúcha con tranh chấp, vợ chồng chia tay, gia đình ly tán, con cái bơ vơ khốn khổ, bạn bè hãm hại, anh em kiện cáo nhau, dối trá lường gạt, hãm hại… xảy ra; do tham dục mà xóm làng, băng đảng, quốc gia… gây chiến tranh đổ máu. Cũng vì tham dục mà sanh ra thụt két, lường gạt nhau lâm vào vòng lao lý. Biết bao triều đại tiêu vong, gia đình tan nát cũng do con người đắm mê sắc dục. Phật dạy: “Trong các thứ ham muốn, ái luyến không gì sâu nặng bằng sắc đẹp. Sắc đẹp gây ra sự ham muốn chẳng có gì bằng” [1, tr.389]. 

Vua Trụ là vị Thiên tử cai quản các chư hầu, nhưng trước sắc đẹp nghiêng thành, đổ lũy của Đắc Kỷ, nhà vua cam đành chiến bại, để ngọn gió dục vọng xao xuyếnbiển lòng”. Cơ nghiệp Thành Thang cũng theo đó sụp đổ; Dương Quý Phi không kềm nổi dục vọng, tư thông với con nuôi là An Lộc Sơn; Lữ Bố thắng nổi muôn binh, ngàn tướng được người đời Tam Quốc tôn là anh hùng đệ nhứt, nhưng đối đầu với Điêu Thuyền ông lại chiến bại, nỡ giết cha nuôi là Đổng Trác, để cho “bão lòng” ngự trị. Nguyên nhân chính của bao sự đổ vỡ từ gia đình đến xã hội đều do lòng tham dục mà ra. Đức Phật dạy: “Người say mê ái dục giống như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị họa cháy tay”. [1, tr.351].

Do thiếu ý thức và tham đắm dục lạc, con người lại lao vào vòng xoáy của ngũ dục, những lối sống xa hoa truỵ lạc, những thứ làm cho say người như rượu, bia, heroin, phim ảnh đồi truỵ... Tham đắm dục lạc không chỉ riêng ở năm loại là: tài, sắc, danh, thực, thùy mà nó bàng bạc khắp không gianthời gian, chi phối cả thân thể lẫn tâm hồn của con người. Sự biểu hiện của tham đắm dục lạc rất đa dạng, rất phong phú. Nó là chiếc bóng có mặt trong cách nghĩ, cách làm của mỗi con người, luôn chi phối chúng sanh trong lục đạo. Phật dạy:

 “Người đắm say ái dục,

  Tự lao mình xuống dòng,

  Như nhện sa lưới dệt…” [8,tr.269]

Đức Phật cũng dạy: “Dục như hố than” [7, tr.174]. Vì sao vậy? Vì người thế gian ưa thích, tham đắm dục lạc, cũng như người bị bệnh phong, ghẻ lở ham muốn được hơ người trên hố than để tìm cảm giác dễ chịu, vì càng hơ vết thương càng thấy dễ chịu hơn, càng nhức nhối càng thích hơ lửa. Con người cũng vậy, càng ham muốn thì càng nghĩ hạnh phúc nằm ở đâu đây nên chạy đi tìm cầu. Nhưng họ đâu biết rằng, người khát nước mà đi uống nước muối thì không bao giờ hết khát; hay như con tằm kéo kén, càng buộc càng bền.

Cuộc sống với bao nhiêu tụ lạc ăn chơi, con người ngày càng nhiều nổi loạn, khủng hoảng về tâm lý. Nhân loại có bị loạn trí mới tìm cách giải trí. Chỉ có người bệnh hoạn mới thích hơ người trên lửa, con người đang ở trong biển khổ mà cho là vui.

Chính vì, con người không nhận thức được tham áikhát ái là nguồn gốc của khổ đau, nên cứ mãi tìm cầu. Cho nên, Đức Phật dạy: “Ngoài sự trói buộc của dục, ta lại không thấy một sự trói buộc nào khác trói buộc chúng sanh khiến cho phải luân hồi mãi mãi”.
[10, tr.131]

3- Tham dục tạo ra chiến tranh

Nguyên nhân gây nên sự đau khổ cho cá nhânloạn lạc cho xã hội xét ra rất nhiều nhưng tựu trung chính là lòng tham dục. Trong kinh Trung bộ, Đức Thế Tôn khẳng định: “Chính tham, sân và si là cội nguồn của mọi ý tưởnghành vi bất chánh, khiến con người trở thành mù lòa, gây khổ đau cho mình, cho người, không đưa đến an lạc hòa bình”. [7, tr.42]

Lịch sử loài người từ xưa đến nay gây nên biết bao núi xương, sông máu. Và ngày nay chiến tranh không hề chấm dứt mà nó bùng nổ khắp nơi với tầm mức ngày càng khốc liệt. Khoảng cách giữa người nghèo và người giàu không được thu hẹp mà còn mở rộng rất nhanh cùng với mức độ tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Chúng ta không thể không nhìn thấy sự thật là từ sau thế chiến thứ hai cho tới nay, trên thế giới này đã từng xảy ra hơn trăm trận chiến lớn nhỏ, tuy có tính địa phương và khu vực nhưng không kém phần dữ dội, tàn ác. Hơn 16 triệu người đã chết, trong số đó, người dân lành vô tội nhiều hơn là binh lính. Các cuộc xung đột vũ trang xảy ra ngày càng dồn dập hơn...

Đức Phật dạy: “Dục như miếng thịt” [7, tr.174]. Một con chim dành được miếng thịt liền bay bổng lên không trung, trong khi những con chim khác cũng đang cố tìm mồi. Vì vậy, chúng đuổi theo để giành giật miếng thịt, chúng cấu xé lẫn nhau để được miếng mồi. Thế là, chẳng con nào chịu nhường con nào và cuộc tranh đấu quyết liệt diễn ra.

Cũng vậy, chiến tranh xảy ra cho loài người cũng bắt nguồn từ lòng tham, sự chinh phục, giành giật và theo đuổi, quyền lựcsở hữu. Con người cố tìm kiếm, cố tạo dựng hạnh phúc cho mình từ cái gì khác ở bên ngoài. Vì sự tự kỷ mà con người xung đột với nhau, chiến tranh và chết chóc không ngừng xảy ra trên cuộc đời này. Trên thực tế, con người luôn ham muốn. Họ mải đi tìm lẽ sống, đó là hạnh phúc về tình yêu, về tài sản, danh vọngđịa vị. Cái mà người ta cho là lẽ sống của cuộc đời này cuối cùng chỉ là ảo ảnh, phù du. “Dù nhìn từ góc độ nào, dù tiến theo hướng nào; chúng ta như những trẻ nít đuổi bắt cánh bướm. Khi đã nắm được xác bướm trong lòng bàn tay, ít ai tự hỏi chinh phục và chiến thắng này có ý nghĩa gì? Và ta vẫn mải miết đuổi theo những cánh bướm này rồi đến những cánh bướm khác”. [13, tr.5].

câu chuyện kể rằng, hơn hai ngàn năm về trước, có một vị vua là Đại đế Asoka, khi đã đạt đến đỉnh cao của danh vọngquyền lực, ông cũng không dừng lại. Vó ngựa của ông chinh phạt nhiều nơi và ông trở thành vị thống lĩnh của một vương quốc hùng cường rộng lớn. Nhưng rồi sau một trận chiến, ông chống gươm nhìn lại và tự hỏi “Đây có phải là chiến thắng khôngĐây có phải là điểm dừng của sự thỏa mãnhạnh phúc không?” 

Có lẽ, do lòng dục chinh phục, ông đã thất bại chính mình mặc dù đã thắng được kẻ thù, bởi Đức Phật dạy: “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình, chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất” [8, tr.33]. Trong khi ông chiến thắng được đại quân ở sa trường thì ông đã bị lòng tham hạ gục và sai sử. Một nguyên nhân khác có lẽ còn quan trọng hơn những nguyên nhân kể trên để đưa đến chiến tranh và đau khổ đó là sự si mê, tham ái. Thật vậy, chính sự si mê, tham ái nên con người không nhận thức được hậu quả tai hại do chính bản thân mình gây ra.

Đức Phật dạy: “Của cảisắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải bị cái hại đứt lưỡi” [1, tr.388]. Chính vì vậy, con người cần phải buông bỏ tham dục. Nhưng buông bỏ bằng cách nào?

Phương pháp chế ngựđối trị dục

Ô nhiễm môi trường, ô nhiễm xã hội bắt nguồn từ nội tâm con người bị ô nhiễm bởi ba độc tham, sân, si. Do đó, chữa bệnh không thể chữa từ ngọn. Đối trị những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như chiến tranh, bạo hành, ma túy, ô nhiễm và hủy hoại môi sinh cũng vậy. Phải đối trị từ trong tâm của con người, của mỗi chúng ta, mà lòng tham không đáy gây ra. Chính vì tham dụckhát ái là mầm mống của khổ đau, cho nên con người muốn thoát khổ cần phảixả ly ngũ dục” [12, tr.100].


Đức Phật dạy:

 “Đa dục vi khổ,

  Sanh tử bì lao,

  Tùng tham dục khởi,

  Thiểu dục vô vi,

  Thân tâm tự tại”. [11, tr.38].

Đi vào thực tiễn của đời sống với nhận thức chánh kiến, con người cần phải thực tập hạnh thiểu dục(1) và tri túc(2). Trong kinh Di giáo, Phật dạy: “Tri túc giả tuy ngọa địa thượng do vi lạc, bất tri túc giả tuy xử thiên đường diệc bất xứng ý” [2, tr.415]. (Người biết đủ dù nằm ở trên đất cũng thấy an lạc, còn người không biết đủ dù được ở thiên đường cũng không vừa ý).

Tu tập quán chiếu Tứ niệm xứ, trang bị cho mình nhận thức rõ về thân, về thọ, về tâm và về pháp. Tu tập hạnh thiểu dục tri túc sống đời thanh bạch từ bỏ các lạc thú ở đời, nhờ vậy trí tuệ được tăng trưởng, tuệ giải thoát phát sinh.

Quán chiếu để thấy rõ bản chất của năm dục lạc đưa đến tội áctai ương hoạn nạn, mà hoạn nạn lớn nhất là trí tuệ bị che khuấtchìm đắm trong vòng sanh tử. Phải tu tập để chiến thắng sự kiềm tỏa của năm dục, phải triệt tiêu áp dụng của chúng trong nội tâm mình.

Kinh Trung bộ đưa ra công thức: “Nhàm chán đưa đến ly tham, ly tham đưa đến đoạn diệt, đoạn diệt đưa đến Niết-bàn” [7, tr. 619]. Vậy để dừng lại tham dục phải có thái độ nhàm chán. Sau đó, là sự gần gũi, tu tập trong Chánh pháp phát triển xu hướng ngược lại của thói thường như trong kinh văn gọi là “Thường niệm tri túc”.

Kết luận

Mục tiêu của đạo Phậtđời sống an lạchạnh phúc chân thật chứ không phải là đời sống giàu hay nghèo. Chấp thủbám víu vào những gì mà bản chất chúng là vô thường, vô ngã thì chắc chắn sẽ gặt hái khổ đau. Lòng tham là đầu mối của các bám víuvướng mắc, cho nên rũ bỏ đi lòng tham vô độ thì đời sống của ta và của người mới nhẹ nhàng, thanh thản, mới có hạnh phúc.

Như vậy, hạnh phúc chỉ có mặt trên thế giới này khi và chỉ khi con người vứt bỏ được những nhu cầu thái quá thuộc ham muốn cá nhân. Ham muốn nhiều thì vất vả, khổ sở nhiều. Đó là quy luật. Con người cứ tưởng rằng họ đạt được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là họ thỏa mãn, họ có hạnh phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì nhiều. Cuối cùng con người cũng nhận ra chân lý đơn giản này khi họ buộc phải từ bỏ tất cả, như khi chết chẳng hạn…

Nỗi đau khổ của cuộc đời giống như nồi nước đang sôi, ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục. Ngọn lửa càng lớn, nước càng sôi và càng cạn kiệt; ngọn lửa càng yếu thì nước sôi sẽ bớt nhiệt độ và hết sôi. Cũng vậy, ngọn lửa tham dục bớt đi thì đau khổ sẽ giảm, giảm mãi hàng ngày đến lúc không còn giảm nữa thì con người sẽ thoát khỏi được những phiền não khổ đau do tham dục gây ra và sự giải thoát tối hậu được thành tựu

 Thích nữ Phúc Thuận

__________________

 (1) Thiểu dục: ít muốn.

(2) Tri túc: biết đủ.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

1. Đoàn Trung Còn dịch, 2004, kinh Tứ thập nhị chương, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.

2. Đoàn Trung Còn, 2004, kinh Di giáo. Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.

3. Minh Chiếu sưu tập, 1999, Truyện cổ Phật giáo Việt Nam, tập I. Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.

4. Nguyễn Thiện Tổng, 1991, Bảo vệ môi trường cho hôm nay và mai sau, HCM: NXB.TP.HCM.

5. Tâm Tuệ Hỷ, 2005, Danh từ Phật học, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.

6. Thích Minh Cảnh, 2007, Từ Điển Phật học Huệ Quang, NXB.Tổng hợp TP.HCM.

7. Thích Minh Châu dịch, 2012, kinh Trung bộ. Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.

8. Thích Minh Châu, 2000, kinh Pháp cú, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.

9. Thích Minh Châu, 2006, Tâm từ mở ra khổ đau khép lại, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.

10. Thích Quảng Độ dịch, 2007, Nguyên thủy P hật giáo tư tưởng luận, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.

11. Thích Thanh Từ, 1993, Kinh Bát đại nhân giác giảng giải, TP.HCM: Thành hội Phật giáo TP.HCM.

12. Thích Viên Giác, 1998, Tài liệu giảng dạy - Kinh Bát đại nhân giác, Trường cơ bản Phật học Long An.

13. Tuệ Sỹ, 2001, Đạo Phậttuổi trẻ, Tu thư Phật học, Viện cao đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang.

14. Việt Nam những vấn đề tài nguyên và môi trường (1998), HCM: NXB.Hà Nội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7842)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9515)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9563)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8075)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10191)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8622)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9077)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8948)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8110)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8858)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25624)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 8969)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14307)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8110)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8517)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11790)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 8977)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10294)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8283)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8903)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9900)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 8115)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9417)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8434)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10876)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9005)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10428)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8222)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10200)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10390)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8930)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8180)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16547)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12228)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12169)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8696)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10117)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8476)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9000)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10293)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8664)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8098)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8675)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7992)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7776)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9490)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8649)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10623)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15030)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12713)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8054)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16612)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6200)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9482)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6966)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7651)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6973)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7641)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22317)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8839)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant