Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Uẩn (song ngữ)

28 Tháng Chín 201511:18(Xem: 9901)
Năm Uẩn (song ngữ)

Năm Uẩn - Barbara O'Brien
(The Five Skandhas - Barbara O'Brien)

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Nam Uan 1

Năm Uẩn

Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi. Nói chung, năm uẩn có thể được nghĩ như sau, khi năm thành phần nầy xảy ra cùng một lúc, sẽ tạo nên một con người. Mọi điều mà chúng ta nghĩ như là "Cái Tôi", chính là một chức năng của năm uẩn. Nói một cách khác, chúng ta có thể nghĩ rằng con người là một quá trình của năm uẩn.

Khi Đức Phật dạy về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), ngài bắt đầu bằng Sự Thật Thứ Nhất, cuộc đời là "khổ" (dukkha). Điều nầy được dịch ra là "cuộc đời là đau khổ," hoặc là "căng thẳng", hoặc là "không làm chúng ta hài lòng." Nhưng Đức Phật cũng dùng từ ngữ nầy theo ý nghĩa là "vô thường", và "có điều kiện." Có điều kiện có nghĩa là phải phụ thuộc vào một cái gì khác, hoặc là bị ảnh hưởng bởi điều gì khác.

Đức Phật dạy rằng năm uẩnđau khổ.

Các thành phần của năm uẩn cùng nhau làm việc, rồi chúng tạo nên một con người, hoặc là một "Cái Tôi." Tuy nhiên, Đức Phật dạy rằng không có "Cái Tôi" trong năm uẩn. Hiểu biết về năm uẩn, giúp cho chúng ta nhìn thấy những ảo ảnh của Cái-Tôi.

Xin lưu ý rằng những lời giải thích dưới đây rất là căn bản. Các tông phái khác nhau của Phật Giáo giải thích về năm uẩn hơi khác nhau, vì thế khi bạn tìm hiểu thêm về năm uẩn, bạn có thể thấy rằng những lời giảng dạy của một tông phái nầy, không hoàn toàn giống lời giảng dạy của một tông phái khác. Tôi cố gắng giải thích ý nghĩa của từ ngữ năm uẩn, để chúng không tùy thuộc vào một tông phái nào.

Trong cuộc thảo luận nầy, trước hết tôi sẽ nói về Sáu Giác Quan (Sáu Căn) và Sáu Đối Tượng Của Sáu Giác Quan (Sáu Trần), và tôi sẽ liệt kê dưới đây để chúng ta cùng tham khảo:

SÁU GIÁC QUAN (SÁU CĂN), GỒM CÓ:

1) Mắt
2) Tai
3) Mũi
4) Lưỡi
5) Thân
6) Ý

SÁU ĐỐI TƯỢNG CỦA SÁU GIÁC QUAN (SÁU TRẦN), GỒM CÓ:

1) Hình Tướng Trông Thấy (Sắc)
2) Âm Thanh (Thanh)
3) Mùi Hương (Hương)
4) Mùi Vị (Vị)
5) Những Gì Ta Xúc Chạm (Xúc)
6) Những Suy NghĩÝ Tưởng (Pháp)

NĂM UẨN LÀ GÌ? DƯỚI ĐÂY LÀ NHỮNG HƯỚNG DẪN CĂN BẢN:

1) UẨN THỨ NHẤT: HÌNH-TƯỚNG (SẮC), TIẾNG PHẠN LÀ RUPA

Từ ngữ tiếng Phạn Rupa, là hình-tướng hoặc là vật chất, là cái gì thuộc về vật chấtchúng ta có thể cảm thấy. Trong thời kỳ đầu tiên của văn học Phật giáo, hình-tướng (sắc) bao gồm Bốn Yếu Tố Lớn còn gọi là Tứ Đại (đất, nước, gió, lửa), cùng với những gì bắt nguồn từ bốn yếu tố trên. Năm giác quan đã được nhắc đến ở trên là (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) cùng với năm đối tượng tương ứng là (sắc, thanh, hương, vị, xúc) là những gì bắt nguồn từ bốn yếu tố lớn nói trên.

Nói một cách khác cho dễ hiểu, hình-tướng (sắc) là một cái gì đó ngăn trở các giác quan. Thí dụ, một món đồ vật có hình tướng, nếu hình-tướng nầy ngăn trở tầm nhìn của bạn - vì bạn không thể nhìn thấy phía sau của hình-tướng nầy - hoặc là nếu hình-tướng nầy chiếm một khoảng không gian.

2) UẨN THỨ NHÌ: CẢM-GIÁC (THỌ), TIẾNG PHẠN LÀ VEDANA

Từ ngữ tiếng Phạn Vedana, là cảm-giác về thể chất hoặc tinh thầnchúng ta trải nghiệm qua sự tiếp xúc của sáu giác quan (sáu căn) với thế giới bên ngoài (sáu trần). Nói một cách khác, đấy là những cảm-giác qua sự tiếp xúc của mắt với hình tướng trông thấy, qua tai với âm thanh, qua mũi với mùi hương, qua lưỡi với mùi vị, qua thân thể với những gì ta xúc chạm, qua tâm (manas) với những suy nghĩý tưởng

Điều quan trọng đặc biệt để hiểu về tâm (manas), trong năm uẩn, là một giác quan, giống y hệt như mắt hoặc tai. Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng, tâm là một cái gì đó giống như tinh thần hoặc linh hồn, nhưng khái niệm nầy thì không thích hợp với Phật Giáo.

Bởi vì cảm-giác (thọ) là trải nghiệm của sự vui thích hoặc sự đau đớn, nên những điều kiện của nó là sự ham muốn, hoặc là muốn nắm giữ lấy sự vui thích, hoặc là muốn lẫn tránh đi sự đau đớn.

3) UẨN THỨ BA: SỰ-NHẬN-BIẾT (TƯỞNG), TIẾNG PHẠN LÀ SAMJNA, HOẶC TIẾNG PALI LÀ SANNA

Từ ngữ tiếng Phạn samjna, là giác quan nhận-biết. Hầu hết những gì chúng ta gọi là sự suy nghĩ phù hợp với sự tập hợp của sự-nhận-biết (tưởng).

Từ ngữ tiếng Phạn samjna có nghĩa là "sự tổng hợp những kinh nghiệm." Đó là khả năng khái niệm hóa và nhận biết mọi thứ bằng cách kết hợp chúng với những thứ khác. Thí dụ, chúng ta nhận ra đôi giày như là đôi giày bởi vì chúng ta kết hợp chúng với kinh nghiệm chúng ta biết trước kia về đôi giày.

Khi chúng ta nhìn thấy một cái gì đó lần đầu tiên, chúng ta tự động tìm kiếm trong đầu óc của chúng ta, những thể loại mà chúng ta có thể kết hợp với đối tượng mới nầy. Thí dụ, chúng ta nhìn thấy "một dụng cụ có tay cầm mầu đỏ," và chúng ta đặt chúng vào thể loại "dụng cụ" và "mầu đỏ." Hoặc là, chúng ta có thể kết hợp đối tượng với bối cảnh của nó - chúng ta nhận biết một bộ máy là máy tập thể dục bởi vì chúng ta thấy chúng ở phòng tập thể dục.

4) UẨN THỨ TƯ: NHỮNG HÀNH-ĐỘNG-CỦA-TÂM-THỨC (HÀNH), TIẾNG PHẠN LÀ SAMSKARA, HOẶC TIẾNG PALI LÀ SANKHARA

Tất cả những hành động cố ý, tốt và xấu, được bao gồm trong tập hợp của những hành-động-của-tâm-thức. Những hành-động-của-tâm-thức hoạt động như thế nào? Chúng ta hãy nhớ đến những bài kệ đầu tiên của Kinh Pháp Cú (sau đây là bản dịch của Acharya Buddharakkhita) -

Tâm dẫn đầu tất cả các trạng thái về tinh thần. Tâm là chủ; tâm là nơi tất cả mọi ý tưởng bắt nguồn. Nếu một người nói, và hành động với tâm ô nhiễm, đau khổ sẽ theo sau người ấy, giống như các bánh xe theo sau chân con bò kéo.

Tâm dẫn đầu tất cả các trạng thái về tinh thần. Tâm là chủ; tâm là nơi tất cả mọi ý tưởng bắt nguồn. Nếu một người nói, và hành động với tâm thanh tịnh, hạnh phúc sẽ theo sau người ấy, giống như bóng với hình, không bao giờ lìa xa.

Sự tập hợp của những hành-động-của-tâm-thức có liên quan đến nghiệp, bởi vì các hành vi cố ý sẽ tạo nghiệp. Những hành-động-của-tâm-thức cũng chứa nghiệp tiềm ẩn, và nghiệp nầy xác định thái độ và tính thiên vị của chúng ta. Những thành kiến ​​và định kiến ​​thuộc về loại uẩn này, cũng như sự quan tâm và sự hấp dẫn.

5) UẨN THỨ NĂM: CÁI BIẾT (THỨC), TIẾNG PHẠN LÀ VIJNANA, HOẶC TIẾNG PALI LÀ VINNANA

Từ ngữ tiếng Phạn vijnana, là một phản ứng mà có một trong sáu giác quancăn bản, và có một trong số sáu hiện tượng tương ứng là đối tượng của nó. Thí dụ, cái-biết về nghe có tai làm căn bản, và âm thanh là đối tượng của nó. Cái-biết thuộc về tinh thần có tâm (manas) làm căn bản, và ý tưởng hoặc sự suy nghĩ là đối tượng của nó.

Điều quan trọng phải hiểu là cái-biết tùy thuộc các uẩn khác, và không tồn tại một cách riêng biệt. Đây là một cái-biết nhưng không phải là một sự nhận biết, vì sự nhận biếtchức năng của uẩn thứ ba (sự nhận biết, tưởng). Cái-biết nầy không phải là cảm giác, vì cảm giác là uẩn thứ hai (cảm-giác, thọ). Đối với hầu hết mọi người, đây là một cách khác để nghĩ về "cái-biết."

Điều quan trọng khác cần phải nhớ về cái-biết (thức), thì đây không phải là uẩn "đặc biệt", hoặc là uẩn "ở vị trí cao hơn" các uẩn khác. Cái-biết (thức) không phải là "cái-tôi." Hành động và phản ứng của tất cả năm uẩn tạo ra ảo ảnh của một cái-tôi.

The Five Skandhas

The historical Buddha spoke often of the Five Skandhas, also called the Five Aggregates or the Five Heaps. The skandhas, very roughly, might be thought of as components that come together to make an individual. Every thing that we think of as "I" is a function of the skandhas. Put another way, we might think of an individual as a process of the skandhas.

When the Buddha taught the Four Noble Truths, he began with the first Truth, life is "dukkha." This is often translated as "life is suffering," or "stressful" or "unsatisfactory." But the Buddha also used the word to mean "impermanent" and "conditioned." To be conditioned is to be dependent on or affected by something else.

The Buddha taught that the skandhas were dukkha.

The component parts of the skandhas work together so seamlessly that they create the sense of a single self, or an "I." But the Buddha taught that there is no "self" occupying the skandhas. Understanding the skandhas is helpful to seeing through the illusion of self.

Please note that the explanation here is very basic. The various schools of Buddhism understand the skandhas somewhat differently, so as you learn more about them you may find that the teachings of one school don't exactly match the teachings of another. The explanation that follows is as nonsectarian as I could make it.

In this discussion I'll be talking about the Six Organs or Faculties and their corresponding objects, so I'm going to list them here for reference:

THE SIX SENSE ORGANS OR FACULTIES

Eye
Ear
Nose
Tongue
Body
Mind

THE SIX CORRESPONDING OBJECTS

Visible form
Sound
Odor
Taste
Tangible things
Thoughts and ideas

WHAT ARE THE SKANDHAS? HERE IS A BASIC GUIDE. (THE NON-ENGLISH NAMES GIVEN FOR THE SKANDHAS ARE IN SANSKRIT UNLESS OTHERWISE NOTED.)

THE FIRST SKANDHA: FORM (RUPA)

Rupa is form or matter; something material that can be sensed. In early Buddhist literature, rupa includes the Four Great Elements (solidity, fluidity, heat, and motion) and their derivatives. These derivatives are the first five faculties listed above (eye, ear, nose, tongue, body) and the first five corresponding objects (visible form, sound, odor, taste, tangible things).

Another way to understand rupa is to think of it as something that resists the probing of the senses. For example, an object has form if it blocks your vision - you can't see what's on the other side of it - or if it blocks your hand from occupying its space.

THE SECOND SKANDHA: SENSATION (VEDANA)

Vedana is physical or mental sensation that we experience through contact of the six faculties with the external world. In other words, it is the sensation experienced through the contact of eye with visible form, ear with sound, nose with odor, tongue with taste, body with tangible things, mind (manas) with ideas or thoughts.

It is particularly important to understand that manas - mind - in the skandhas is a sense organ or faculty, just like an eye or an ear. We tend to think that mind is something like a spirit or soul, but that concept is very out of place in Buddhism.

Because vedana is the experience of pleasure or pain, it conditions craving, either to acquire something pleasurable or avoid something painful.

THE THIRD SKANDHA: PERCEPTION (SAMJNA, OR IN PALI, SANNA)

Samjna is the faculty that recognizes. Most of what we call thinking fits into the aggregate of samjna.

The word "samjna" means "knowledge that puts together." It is the capacity to conceptualize and recognize things by associating them with other things. For example, we recognize shoes as shoes because we associate them with our previous experience with shoes.

When we see something for the first time, we invariably flip through our mental index cards to find categories we can associate with the new object. It's a "some kind of tool with a red handle," for example, putting the new thing in the categories "tool" and "red." Or, we might associate an object with its context - we recognize an apparatus as an exercise machine because we see it at the gym.

THE FOURTH SKANDHA: MENTAL FORMATION (SAMSKARA, OR IN PALI, SANKHARA)

All volitional actions, good and bad, are included in the aggragate of mental formations. How are actions "mental" formations? Remember the first lines of the dhammapada (Acharya Buddharakkhita translation) -

Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind-wrought. If with an impure mind a person speaks or acts suffering follows him like the wheel that follows the foot of the ox.

Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind-wrought. If with a pure mind a person speaks or acts happiness follows him like his never-departing shadow.

The aggregate of mental formations is associated with karma, because volitional acts create karma. Samskara also contains latent karma that conditions our attitudes and predilections. Biases and prejudices belong to this skandha, as do interests and attractions.

THE FIFTH SKANDHA: CONSCIOUSNESS (VIJNANA, OR IN PALI, VINNANA)

Vijnana is a reaction that has one of the six faculties as its basis and one of the six corresponding phenomena as its object. For example, aural consciousness - hearing - has the ear as its basis and a sound as its object. Mental consciousness has the mind (manas) as its basis and an idea or thought as its object.

It is important to understand that consciousness depends on the other skandhas and does not exist independently from them. It is an awareness but not a recognition, as recognition is a function of the third skandha. This awareness is not sensation, which is the second skandha. For most of us, this is a different way to think about "consciousness."

It is also important to remember that vijnana is not "special" or "above" the other skandhas. It is not the "self." It is the action and interaction of all five skandhas that create the illusion of a self.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7843)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9517)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9563)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8076)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10192)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8622)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9080)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8948)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8112)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8860)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25628)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 8969)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14311)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8111)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8519)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11792)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 8977)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10294)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8283)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8904)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9376)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8117)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9418)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8434)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10877)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9005)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10429)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8222)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10201)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10390)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8930)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8180)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16548)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12228)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12170)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8696)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10118)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8478)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9001)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10293)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8665)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8099)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8675)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7992)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7776)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9490)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8649)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10624)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15030)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12713)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8055)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16612)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6200)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9484)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6966)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7651)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6973)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7641)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22318)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8842)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant