Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh KhôngAn Lạc

18 Tháng Mười Một 201505:55(Xem: 8096)
Tánh Không Và An Lạc

TÁNH KHÔNGAN LẠC

Nguyễn Thế Đăng


Tánh Không Và An Lạc
 

Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thânan lạc:

Phật thân cùng khắp đầy pháp giới
Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền
Các thứ giáo môn thường dạy trao
Nơi pháp tự tại hay khai ngộ.
Trong các điều vui của thế gian
Thánh tịch diệt lạc là tối thượng
Trụ trong pháp tánh rộng mênh mông
Thiên vương Diệu Nhãn quan sát thấy

          (Phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)

Chư Phật, Đại Bồ-tát ứng hiện thân nơi thế gian, thân ấy lấy pháp thân làm nền tảng nên chứa cái vui cao nhất của thế gian là “thánh tịch diệt lạc”. Hóa thân của một bậc giác ngộbốn đại đã được chuyển hóa thành lạc tịch diệt tối thượng.

Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37, nói quang minh Như Lai (Báo thân) “khiến sanh hoan hỷ”, “hay làm cho tất cả chúng sanh đều được hoan hỷ”:

“Các Bồ-tát trước đó đã thành tựu những địa khi thấy quang minh này thì lại được thanh tịnh hơn, tất cả thiện căn thảy đều thành thục, hướng đến Nhất thiết trí. Các bậc Nhị thừa thấy quang minh này thì diệt tất cả phiền não. Những chúng sanh khác mù tối, nhờ quang minh này thân họ được lạc phúc, tâm trở nên thanh tịnh, nhu nhuyến, dễ uốn nắn để có thể tu chánh niệmtrí huệ. Những chúng sanh trong những cõi địa ngục, quỷ đói, súc sanh đều được khoái lạc, giải thoát những khổ và khi chết được sanh lên cõi trời hoặc cõi người”.

Bản chất của quang minh hay báo thân là lạc phúc, hoan hỷ, nên khi chúng sanh tiếp xúc được với nó thì đều được lạc phúc, hoan hỷ.

Báo thân có nền tảng là Pháp thân và luôn luôn đi cùng Pháp thân. Như thế Lạc và Không luôn luôn đi cùng nhau, không tách rời. Đây cũng là sự thành tựu tối cao của các Tantra Mật thừa: sự bất nhị của tánh khôngđại lạc (mahasukha).

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV nói: “Trong những Tantra Yoga tối thượng, như Kalachakra, giai đoạn cuối là samadhi, trong đó lạc bất biến tối thượng sanh khởi” (Tantra in Tibet, Dalai Lama XIV, 1987 – Mật thừa Tây Tạng, chương Kim cương thừa, nxb Thiện Tri Thức, 1999).

Bài kệ của Ban-thiền Lạt-ma thứ VI nói:

Nguyện rằng con thành tựu thông điệp Bất Nhị sâu xa
Của hai giai đoạn thiền định được dạy trong Guhyasamaja,
Yamantaka, Heruka Chakrasamvara và Kalachakra
Như thế trong nội đời này con hoàn thành chứng ngộ
Thân huyễn và tịnh quang trong hợp nhất viên mãn
Hay thân không hợp nhất với lạc phúc bất biến.

          (Sự tu hành Kalachakra, Glenn Mullin, TTT dịch, 2009)

Chúng ta tìm hiểu tiếp về vấn đề tánh khôngan lạc này ở tam muội thứ 8 trong 10 tam muội của phẩm Hiền Thủ, thứ 12, đặc biệt nói về quang minh. Mười tam muội này do Bồ-tát Hiền Thủ nói cho các Bồ-tát cầu chứng giác ngộ, “những công đức đó chẳng lường được, nay tôi tùy sức nói ít phần”.

Tam muội thứ 8 nói về những quang minh mà khi phóng ra đem đến an lạc cho chúng sanh. Có thể đặt tên cho tam muội thứ 8 này là Quang minh tam muội. Quang minh tam muội thứ nhất có tên là An Lạc

Có thắng tam muội tên An Lạc
Hay khắp cứu độ các quần sanh
Phóng đại quang minh chẳng nghĩ bàn
Khiến ai được thấy đều điều phục…

Quang minh Báo thân khi phóng ra thì tất cả những sự tiêu cực xấu xa bị tiêu diệt: “bao nhiêu ám chướng đều tiêu trừ”, “rưới tắt những khát ái thế gian”, “vượt qua được bốn dòng nước dữ”, và hiển bày những công đức khiến chúng sanh thực hành Phật pháp để giải thoát. Thế nên một quang minh có tên là Thiện Hiện, sự xuất hiện của những cái thiện.

Khi những tiêu cực đó được xua tan thì an lạc bèn đến. Có quang minh tên là Hoan Hỷ vì làm cho chúng sanh hoan hỷ, ưa làm những hoạt động đem đến sự vui thích cho thân tâm và rồi thành tựu quang minh cho chính mình:

Lại phóng quang minh tên Hoan Hỷ
Quang này thức tỉnh tất cả chúng
Khiến họ ái mộ giác ngộ, Phật
Phát tâm nguyện chứng vô sư đạo.
Tạo lập tượng Như Lai đại bi
Tướng hảo trang nghiêm ngự tòa sen
Luôn ca ngợi những thắng công đức
Do đây thành được quang minh này.

Quang minh Báo thân thành tựu là do công đức được làm y vào Pháp thân tánh Không, “do bổn hạnh xưa được quang minh”:

Nếu ai tự tu các phước nghiệp
Cúng dường chư Phật vô lượng số
Nơi công đức Phật thường nguyện cầu
Được quang minh này làm giác ngộ.

Quang minh là do công đức, nguyện và hạnh hợp thành, do đó quang minhBáo thân. Báo thân nghĩa là thân lạc phúc, vì Báo thân còn được dịch là “Thọ pháp lạc Phật”.

Quang minh ấy là an lạc và làm cho người khác chuyển dục lạc thành an lạc. Việc phóng quang hẳn là do năng lực của từ bi nơi một Bồ-tát:

Lại phóng quang minh tên Diệt Ái
Quang này thức tỉnh tất cả chúng
Khiến họ xa lìa cảnh năm dục
Trụ nơi diệu vị của giải thoát.
Nếu hay lìa bỏ cảnh năm dục
Tâm trụ diệu vị của giải thoát
Thì hay dùng cam lộ Phật pháp
Rưới tắt những khát ái thế gian.
Bố thí ao giếng và dòng suối
Chuyên cần đạo giác ngộ vô thượng
Trách  năm dục, ca ngợi thiền định
Do đây được thành quang minh này.

Cũng nhờ quang minh của Báo thân mà người ta có thể đi sâu vào Pháp thân tánh Không và giúp người khác thấu đạt tánh Không, bởi vì Báo thân quang minh chẳng hề lìa Pháp thân tánh Không.

Lại phóng quang minh tên Huệ Đăng

Quang này thức tỉnh tất cả chúng

Khiến biết chúng sanh tánh không tịch

Tất cả các pháp vô sở hữu.

Diễn nói các pháp Không, vô chủ

Như huyễn, ngọn lửa, trăng dưới nước

Cũng như giấc mộng, bóng trong gương

Do đây thành được quang minh này.

quang minh tên là An Ổn, từ an ổn hết khổ đau mà được an lạc.

Lại phóng quang minh tên An Ổn

Quang này chiếu đến người tật bệnh

Khiến trừ tất cả sự khổ đau

Đều được an lạc trong chánh định…

Lại có quang minh khiến người vui mừng thích thú với Pháp:

Lại phóng quang minh tên Lạc Pháp

Quang này giác ngộ tất cả chúng

Khiến nơi chánh pháp luôn mến thích

Lóng nghe diễn thuyết và biên chép

Lúc pháp sắp diệt hay diễn thuyết

Khiến người cầu pháp ý thỏa mãn

Mến thích chánh pháp siêng tu tập

Do đây được thành quang minh này.

Quang minh Báo thân làm những Phật sự như trang nghiêm, cúng dường, xây tháp, tạo tượng bằng đủ loại hương hoa đồ vật thơm sạch quý báu khiến thế giới này biến thành linh thiêng, thanh tịnh, hân hoan, an vui, thành một cõi Tịnh độ. Quang minh Báo thân biến thế giới thành cõi Phật:

Lại phóng quang minh tên Hương Nghiêm

Quang này giác ngộ tất cả chúng

Khi người nghe pháp lòng hân hoan

Quyết định sẽ thành công đức Phật.

Hương tốt quý giá hoa trên đất

Cúng dường tất cả chư Thế Tôn

Cũng dùng xây tháp và tượng Phật

Do đây thành tựu quang minh này.

Lại phóng quang tên Tạp Trang Nghiêm

Bửu tràng, phan lọng vô số lượng

Thắp hương, rải hoa, tấu âm nhạc

Thành ấp trong ngoài đều khắp cả.

Đem những kỹ nhạc vi diệu ấy

Cùng những hương hoa phan lọng đẹp

Các thứ trang nghiêm cúng dường Phật

Do đây thành được quang minh này.

Lại phóng quang minh tên Nghiêm Khiết

Khiến mặt đất đai đều bằng phẳng

Trang nghiêm tháp Phật và chung quanh

Do đây thành được quang minh này.

Lại phóng quang minh tên Đại Vấn

Hay khởi mây thơm hay nước thơm

Nước thơm rưới tháp và chung quanh

Do đây thành được quang minh này.

Quang minh Báo thân này một khi thấm vào tâm , từ từ thấm ra đến khẩu, và cuối cùng ra đến thân, nghĩa là ra đến các giác quanchuyển hóa các giác quan:

Lại phóng quang minh tên Diệu Âm

Quang này khai ngộ các Bồ-tát

Tất cả các tiếng trong ba cõi

Đều khiến người nghe là tiếng Phật.

Lớn tiếng ca ngợi tán thán Phật

Bố thí chuông linh các âm nhạc

Khiến khắp thế gian nghe âm Phật

Do đây được thành quang minh này.

Do quang minh này, mắt tai mũi lưỡi thân ý, các giác quan đều trở nên thanh tịnh, kinh nghiệm được cõi giới của Phật, hay là pháp giới:

Lại phóng quang tên Mắt Thanh Tịnh

Hay khiến người mù được nhìn thấy

Đem đèn cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang minh này…

Lại phóng quang tên Tai Thanh Tịnh

Hay khiến người điếc được nghe tiếng

Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang minh này…

Do quang minh này sắc thanh hương vị xúc pháp đều thành thanh tịnh, nghĩa là trở lại bản tánh thanh tịnh của chúng, do đó cảnh vật đối tượng đều thành cõi tịnh độ, cõi Phật:

Lại phóng quang tên Sắc Thanh Tịnh

Khiến thấy Phật sắc chẳng nghĩ bàn

Đem những Phật sắc trang nghiêm tháp

Do đây được thành quang minh này.

Lại phóng quang tên Thanh Thanh Tịnh

Khiến biết tánh thanh vốn không tịch

Quán thanh duyên khởi như tiếng vang

Do đây được thành quang minh ấy.

Lại phóng quang tên Hương Thanh Tịnh

Khiến mọi vật hôi đều thơm sạch

Nước thơm rửa tháp, cây bồ-đề

Do đây được thành quang minh ấy.

Lại phóng quang tên Vị Thanh Tịnh

Hay trừ tất cả độc trong vị

Hằng cúng dường Phật, Tăng, Mẹ Cha

Do đây được thành quiang minh ấy.

Lại phóng quang tên Xúc Thanh Tịnh

Hay khiến thô nhám thành dịu êm

Dù thương đao kiếm trên rơi xuống

Đều khiến biến thành tràng hoa đẹp.

Bởi xưa từng ở giữa đường sá

Thoa hương, rải hoa, trải y phục

Rước đưa chư Phật đi trên đó

Vì thế nay được quang minh này…

Kinh còn nhiều đoạn nữa, nhưng cũng đủ cho chúng ta thấy quang minh tức Báo thân an lạc không lìa Pháp thân tánh Không, chuyển hóa thân tâmthế giới này thành môi trường của an lạc hay cõi Phật thanh tịnh. Đó là sự chuyển hóa sanh tử thành Niết-bàn, là một mục đích tu chứng của Đại thừa.

Khi một Bồ-tát chuyển hóa thế giới vật chất sanh tử khổ đau thành thanh tịnh, thiêng liêng, an lạc, thì thân tâmthế giới trở thành Hóa thân của vị ấy. Sự chuyển hóa này là do Báo thân quang minh an lạc không lìa khỏi Pháp thân tánh Khôngthành tựu.

Kinh dạy mỗi chúng ta vẫn có ba thân Pháp, Báo, Hóa, dù ở dạng tiềm năng. Chúng ta vẫn đang có Báo thân dù chưa phóng quang minh được vì chưa đủ trí huệcông đức. Phật pháp là để cho chúng ta khai mở quang minh Báo thân ấy, sử dụng nó làm lợi lạc cho mình cho người để biến cuộc đời sanh tử của chúng ta thành môi trường của an lạctự do.

Với một vị Phật thì ở đâu cũng là Tịnh độ, ở đâu cũng là cảnh giới của tánh Khôngan lạc:

“Đại Bồ-tát dùng trí huệ vô ngại biết tất cả cảnh giới thế giancảnh giới Như Lai. Biết tất cả cảnh giới ba đời, tất cả cõi cảnh giới, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sanh cảnh giới, chân như vô sai biệt cảnh giới, pháp giớichướng ngại cảnh giới, thật tế vô biên tế cảnh giới, hư không vô phần lượng cảnh giới, cảnh giới không cảnh giới, đều là Như Lai cảnh giới”. (phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37).

 Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 229

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15013)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7893)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9556)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9579)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 10258)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8664)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9121)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8967)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8129)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8904)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25663)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 8992)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14343)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8124)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8541)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11819)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 8997)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10316)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8311)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8916)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9922)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9400)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8143)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9436)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8475)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10888)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9049)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10472)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8246)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10219)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10399)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8945)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8200)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16574)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12246)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12184)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8730)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10150)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8483)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9011)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10299)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8680)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8142)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8685)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8035)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7811)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9521)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8673)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10632)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15046)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12732)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8060)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16623)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6210)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9499)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6981)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7662)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6977)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7655)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22354)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant