Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vấn Đề Chủng Tánh/ Giai Cấp Tối Thắng Qua Văn Hệ Nikaya và A Hàm

01 Tháng Bảy 201515:15(Xem: 6200)
Vấn Đề Chủng Tánh/ Giai Cấp Tối Thắng Qua Văn Hệ Nikaya và A Hàm
VỀ VẤN ĐỀ CHỦNG TÁNH/GIAI CẤP TỐI THẮNG
QUA VĂN HỆ NIKĀYA VÀ A-HÀM

Phước Nguyên
*******

I.  Ý NGHĨA TỪ CHỦNG TÁNH TRONG KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA
Trước khi truy nguyên ý nghĩa từ chúng tánh trong văn hệ Nikāya Pāli và A-hàm, chúng ta đi qua ý nghĩa của nó trong Kinh điển Đại-thừa, việc làm này cũng là điều thường thấy trong cách thức trình bày, để có thể có được quan điểm xuyên suốt về vấn đề, mà không bị vướng mắc ở nơi những phạm trù tư tưởng hay khái niệm. Ở đây, chúng ta tạm mượn kinh Nhập Lăng-già, thuộc kinh điển Đại-thừa, để làm cơ sở khi nói về ý nghĩa này.
Kinh Saddharmalakāvatārasūtram, Hán dịch tương đương: Đại Thừa Nhập Lăng Già kinh[1], đức Thế Tôn dạy về chủng tánh như sau:
pañca abhisamayagotrāi ... śrāvakayānābhisamayagotra, pratyekabuddha-, tathāgata, anitya-taikataragotra agotram[2]”: “Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa[3]: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
Các hữu tình đã được nói là bản lai có năm chủng tánh khác nhau do đó cần phải xác định có chủng tử pháp nhĩ, không phát sinh do bởi huân tập. Tại sao ? Nhập Lăng-già 2[4] nói rõ, về chủng tánh của năm thừa do hiện chứng:
Punar mahāmate pañcābhisamayagotrāi. katamāni pañca? yad uta śrāvakayānābhi-samayagotra, pratyekabuddhayāna-, tathāgatayāna-, aniyataikataragotra, agotra”:  Này Đại Huệ, có năm chủng tánh được hiện chứng. Đó là, chủng tánh hiện chứng Thanh văn thừa, chủng tánh hiện chứng Độc giác thừa, chủng tánh hiện chứng Như lai thừa, chủng tánh bất định, và không chủng tánh.
Giải thích vấn đề này của kinh Lăng già ta có thể dẫn ở Vô thượng y kinh 1[5], hay Thiện dũng mãnh bát-nhã 1 tức Đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, quyển 593, hội thứ 16[6]Hạng chủng tánh bất định, là không nhất định sẽ chứng thừa nào, mà tùy theo điều kiện ban đầu; gặp nhân duyên với thừa nào thì phát tâmthành tựu cứu cánh trong thừa đó. Hạng vô chủng tánh, mà kinh gọi là nhất-xiển-đề, là hạng không có chủng tánh Niết-bàn”.
Cũng theo kinh Lăng-già: “Nhất-xiển-đề là hạng không có Niết-bàn tánh. Hạng này không có tín tâm để tin rằng có sự giải thoát nên không hề có ý hướng về sự nhập Niết-bàn”[7].
Nhóm chủng tánh này cũng được chia thành hai nhánh: Nhánh đoạn thiện căn do không có một chút gốc rễ thiện gì để có thể tin tưởnggiải thoát và Niết-bàn. Nhánh thứ hai, Bồ-tát do đại bi nên vĩnh viễn không hề có ý hướng Niết-bàn[8].
Như vậy, tóm lại các loại chủng tánh được kể trong kinh Lăng-già gồm: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
Ngoài ý nghĩa từ chủng tánh được dùng ở đây, để chỉ cho năm loại chủng tánh đã kể trên, trong văn hệ Pāli và A-hàm từ Sanskrit gotra: chủng tánh, Pāli gọi là gotta: chủng tộc còn được dùng với ý nghĩa khác, tức để chỉ cho bốn chủng tánh đó là: Sát-lị, Bà-la-môn, Cư sỹ và Thủ-đà-la[9].

II. CHỦNG TÁNH/GIAI CẤP NÀO LÀ TỐI THẮNG?
Một thời, khi Thế Tôn cư trú tại thành Xá-vệ, trong vườn Thanh Tín, giảng đường Lộc Mẫu, cùng đại chúng Tỳ-kheo. Bấy giờ ngài nói có bốn chủng tánh như sau:
Này Bà-tất-tra, có bốn chủng tánh, trong đó có cả người thiện lẫn người ác; có kẻ được người trí khen, cũng có kể bị người trí chê. Bốn chủng tánh ấy là: Sátlị, Bà-la-môn, Cư sỹ, Thủ-đà-la”[10].
Và khi đề cập đến chủng tánh hay chủng tộc nào là tối thượng trong bốn chủng tánh trên, đức Thế Tôn đã từng dạy:
 “Khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”[11]:
“Những ai tin vào chủng tộc, thì Sát-lợi là tối tôn”.
Từ chủng tộc Pāli gọi là gotta, nó cũng được hiểu là giai cấp, tầng lớp, tầng bậc, từ Sanskrit tương đương ở đây là gotra: chủng tánh, ở đây cũng hiểu là chủng tử (bīja), là giới (dhātu), là tánh (prakti).
Như vậy, chúng ta lần lượt đi vào một số kinh văn, để hiểu rõ hơn về vấn đề Thế Tôn dạy về chủng tánh hay giai cấp tối thượng như thế nào.
*Kinh Tiu Duyên[12]:
Lúc bấy giờ, Thế Tôn cư trú tại Xá-vệ, trong vườn Thanh Tín, giảng đường Lộc Mẫu, cùng đại chúng Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị.
Tại đây, Thế Tôn nói về giai cấp bậc nhất, qua bài kệ sau:
"Trong đời, Sát-lị nhất
Với ai y chủng tánh
Minh Hành thành đầy đủ
Bậc nhất trong Trời-Người"[13]Nguyên văn ở trong Đại Tạng Kinh 1, Trường A-hàm có khác biệt một chút như vầy:
“ 生中剎 利勝
能捨種姓去"[14]:
“Trong đời Sát-lị là nhất;
Ai hay rời bỏ chủng tánh.”
Câu này Pāli có tương đương: “khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”: với những ai y chỉ chủng tánh (giai cấp), sát-lị là bậc nhất trong loài thọ sinh. 
Bản Hán có lẽ đọc là gottanissārino: hiểu thành 能捨種姓去[15]: những ai rời bỏ chủng tánh. Cách hiểu này không phù hợp với nội dung toàn kinh và đoạn dịch Hán bài kệ tương tự trong kinh A-ma-trú sẽ dẫn ở bên dưới, cũng ở Trường A-hàm. Nên căn cứ theo đây có thể tạm hiệu chỉnh lại là: Với ai y chủng tánh. Như vậy, phù hợp với Pāli và toàn bộ tư tưởng với những kinh văn tương đương.
*Kinh A-ma-trú[16]
Một thời, đức Thế-Tôn du hành nước Câu-tát-la, cùng đại chúng Tỳ-kheo, rồi đến Y-xa-năng-già-la, thôn của một người Bà-la-môn ở Câu-tát-la. Ngài nghỉ đêm tại rừng Y-xa. Tại đây, có một vị Phạm Thiên tự mình nói bài kệ rằng:
Trong đời, Sát-lị nhất,
Với ai y chủng tánh
Minh, Hành thảy đầy đủ,
Tối thắng giữa Trời Người”[17].
Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo Ma nạp đệ tử 摩納弟子 (Pāli. avo antevāsi) tức thiếu niên đệ tử người học trò hầu cận trẻ tuổi rằng:
“Phạm Thiên nói bài kệ này, thật là nói khéo chớ không phải không khéo. Ta công nhận như vậy. Vì sao? Nay, như Ta, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chính Giác, cũng nói nghĩa đó:
Trong đời, Sát-lị nhất,
Với ai y chủng tánh.
Minh, Hành thảy đầy đủ,
Tối thắng giữa Trời Người"[18]*Kinh Khởi Thế Nhân Bổn, Trường Bộ Kinh[19].
Một thời Thế Tôn trú tại Xá-vệ, Thành Tín Viên lâm, ở lầu của Lộc Mẫu Giảng đường. Tại đây, Thế Tôn dạy Vāsettha về giai cấp bậc nhất như sau:
"Này Vāsettha, vì rằng nếu có ai trong bốn giai cấp là một vị Tỷ kheo, một vị A la hán, các lậu hoặc đã được tận diệt, phạm hạnh đã lập vững, những việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành tựu mục đích tối thượng, hữu kiết sử đã diệt, nhờ chánh trí đã được giải thoát, vị ấy sẽ được xem là tối thượng so sánh với bốn giai cấp, vì xứng với Pháp, không phải không xứng với Pháp.
"Này Vāsettha, bài kệ sau đây được Phạm thiên Sanamkumāra[20] tuyên thuyết:
Chúng sanh tin giai cấp,
Sát đế lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
“Này Vāsettha, bài kệ này được Phạm thiên Sanamkumāra, khéo hát chớ không phải vụng hát, khéo nói chớ không phải vụng nói, đầy đủ ý nghĩa chớ không phải không đầy đủ, được Ta chấp nhận.
“Này Vāsettha, Ta cũng nói như sau:
Chúng sanh tin giai cấp,
Sát đế lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên."
Như vậy, qua kinh Khởi Thế Nhân Bổn thuộc văn hệ Pāli, Thế Tôn đã xác chứng việc Phạm thiên Sanamkumāra tuyên thuyết về giai cấp tối thượng bằng cách nói cho Vāsettha nghe bài kệ giống như bài kệ của vị Phạm Thiên kia.
*Kinh Bà La Bà Đường[21]Một thời, Thế Tôn du hóa nước Xá-vệ, trú tại Đông viên, trong giảng đường Lộc tử mẫu. Lúc ấy Thế Tôn dạy cho Bà-tư-tra như sau:
"Này Bà-tư-tra, ở đây có ba giai cấp khiến cho không phải tất cả mọi người cùng tranh luận với nhau, thiện và bất thiện lẫn lộn, được các bậc Thánh khen ngợi hoặc không khen ngợi. Thế nào là ba? Đó là: dòng Sát-lợi, dòng Phạm chí, dòng Cư sĩ.
[...] 
“Này Bà-tư-tra, như vậy, Ta đã phân biệt rộng rãi về ba chủng tánh này vậy.
“Phạm thiên đế chúa nói bài kệ:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.
“Này Bà-tư-tra, Phạm thiên đế chúa khéo nói bài kệ này chứ không phải không khéo, khéo ca ngơi, phúng tụng chứ không phải không khéo, khéo ngâm vịnh và nói, chứ không phải không khéo, nói như thế này:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.
“Vì sao? Vì Ta cũng nói như vậy:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.”[22]
Như vậy, qua kinh này Thế Tôn cũng dạy rằng, chủng tộc Sát-lợi là tối tôn trong các chủng tộc.
*Kinh Phạm Chúa[23]Một thời, Đức Thế Tôndưới gốc cây bồ-đề, bên sông Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la, khi ấy ngài thành đạo chưa bao lâu.
Bấy giờ, có Phạm thiên vương, chúa của thế giới Ta-bà, với sắc thân tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu kính lễ dưới chân Thế Tôn, rồi ngồi lui qua một bên và nói kệ:
Ở trong các chủng tánh,
Lưỡng túc tôn Sát-lợi;
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng trong loài người”[24].
Bấy giờ Thế-Tôn ngài đáp lại như sau: Đúng vậy, Phạm thiên! Đúng vậy, Phạm thiên!
Ở trong các chủng tánh,
Lưỡng túc tôn Sát-lợi;
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng trong loài người."[25]Trong bài kệ có câu: “Ở trong các chủng tánh, lưỡng túc tôn Sát-lợi”, Pāli tương đương của câu này: “khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”[26]: những ai tin vào chủng tộc, thì Sát-lợi là tối tôn.

III. KẾT LUẬN
Như vậy, qua vài ý tưởng viện dẫn từ kinh văn ở trên, chúng ta thấy rằng, đức Thế-Tôn dạy rằng: giai cấp Sát-lợi là chủng tánh tối tôn hay giai cấp bậc nhất trong bốn giai cấp.
Nhưng vấn đề này không nhất thiết cố định, tùy vào căn cơ, quốc độ hay thời điểm mà Thế Tôn sẽ diễn thuyết sai biệt. Cụ thể như ở trong  Kinh Trung A-hàm, Kinh Nhất Thiết Trí, số 212, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Có bốn chủng tộc này, Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ và Công sư, chúng bình đẳng đối với đoạn, không hơn kém, không sai biệt đối với đoạn vậy"[27].
Và ở nơi khác, khi đức Đức Thế Tôn đang du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc,  lúc bấy giờ Ngài nói rằng: “Này Ma-nạp, trước kia ngươi khen ngợi sự học hỏi, sau đó ngươi khen ngợi sự trì giới. Này Ma-nạp, như vậy Ta nói bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh, với sự giảng giải hiển thị, ngươi cũng nói bốn chủng tánh này đều thanh tịnh với sự giảng giải hiển thị.”[28]Nếu thấy được phương tiện thiện xảo[29] trong việc thuyết phápđức Thế Tôn đã thi thiết kiến lập như vậy, chúng ta sẽ vượt ra khỏi được những cực đoan, chấp thủvững chắc trên trung đạo, trong lộ trình thể nhập Thánh đạo vô lậu, giải thoát sinh tử.
 
[1] Lăng-già, Bản 10 quyển; T16n0671, tr.526c8.
[2] Lakāvatāra, Nanjio tr. 64.
[3] Thừa Skt. yāna. Cần phân biệt: yāna: “cỗ xe” với yana, “một con đường”.
[4] T16n671, tr. 526c8. Cf. Skt. Lap. 63.
[5] Dẫn theo Thuật ký, ghi là Đại16, số 669, chưa tìm thấy số trang.
[6] T7n220, tr. 1066a29; Skt. Suvikrāntavikrāmaparipcchā.
[7] Ibid., tr. 527a29.
[8] Skt. ibid., tr. 66: icchantika.
[9] Cf. Trường, Tiểu Duyên Kinh, Đại 1, tr. 37a.
[10] Ibid., tr. 37a.
[11] Pāli, S.6.11. Sanakumāra.
[12] Trường A-hàm, Đại 1, tr. 36b29.
[13] Ibid., tr. 39a.
[14] Ibid., tr. 39a.
[15] Ibid., tr. 39a.
[16] Trường A-hàm, Đại 1, tr. 83b.
[17] Đại 1, tr. 83b.
[18] Đại 1, tr. 83b.
[19] Digha Nikaya, Agganna sutta 27.
[20] Hán: Thường Đồng hình Phạm thiên.
[21] Cf. Kinh Trung A-hàm, kinh 154. Pali tương đương: Agaññasuttanta. Bản Hán, quyển 39. Pāli, D.27, Hán, biệt dịch, Trường A-hàm 5, “Kinh Tiểu Duyên”; No.10 Phật Thuyết Bạch Y Kim Tràng Nhị Bà-la-môn Duyên Khởi Kinh, Tống, Thi Hộ dịch.
[22] Kinh Trung A-hàm, kinh 154. Pali tương đương: Agaññasuttanta.
[23] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11. Sanakumāra. Biệt dịch, №100 (103).
[24] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11.
[25] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11.
[26] Pāli, S.6.11. Sanakumāra
[27] Đại 1, tr. 648a.
[28] Cf. Kinh Trung A-hàm kinh 151: Kinh Phạm chí A-nhiếp-hòa. Tương đương Pāli M.93 Assalāyana-sutta. Hán, biệt dịch No.71 Phạm Chí An-ba-la-diên Vấn Chủng Tôn Kinh, Đông Tấn, Trúc Đàm-vô-lan dịch.
[29] Skt. Upāyakauśalya , Hán phiên âm âu-hòa câu-xá-la, upāya: chỉ sự tiếp cận, động từ căn I, có nghĩa đi hay đến, và upa, tiền tố chỉ hướng đến gần, hay vị trí ở gần hay ở trên; kauśalya, mà gốc là do hình dung từ kuśala: thiện, lành, tốt đẹp hay khéo léo, Hán dịch là “thắng trí,” là chỉ nghĩa trí tuệ nhạy bén. Cf. Duy ma kinh nghĩa sớ, Gia Tường Cát Tạng, T38 N1781, tr. 931b18: 梵音稱漚和拘舍羅。此云方便勝智.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7843)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9517)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9564)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8077)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10193)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8623)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9080)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8948)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8112)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8860)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25628)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 8969)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14311)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8111)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8519)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11794)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 8977)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10294)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8284)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8904)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9902)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9376)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8117)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9419)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8434)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10877)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9005)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10429)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8222)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10201)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10391)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8930)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8181)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16548)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12228)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12170)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8698)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10119)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8478)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9001)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10294)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8665)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8099)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8675)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7993)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7776)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9490)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8649)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10624)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15032)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12713)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8055)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16612)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 9487)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6967)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7652)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6973)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7641)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22320)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8842)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant