Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhận Ra Rằng Mình Không Thể Tồn Tại Trong Và Tự Chính Mình

24 Tháng Bảy 201514:19(Xem: 9042)
Nhận Ra Rằng Mình Không Thể Tồn Tại Trong Và Tự Chính Mình

NHẬN RA RẰNG MÌNH KHÔNG THỂ TỒN TẠI
TRONG VÀ TỰ CHÍNH MÌNH

Đức
Đạt Lai Lạt Ma

Tuệ Uyển chuyển ngữ


Nhan Ra Rang
Như chiếc xe ngựa được diễn đạt bằng lời nói
Trong việc tùy thuộc trên những tập hợp của những bộ phận,
Vì thế một cách quy ước thế gian, một chúng sinh
Được thiết lập trên những tập hợp uẩn của tinh thầnthân thể
-BUDDHA
-
  

Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn.  Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.   Đây là một con người, yêu thương và thù hận, kẻ thực hiện những hành động và tích lũy nghiệp tốt hoặc xấu, kẻ trãi nghiệm những kết quả của những hành vi ấy, kẻ tái sinh trong vòng sinh tử luân hồi, kẻ trau dồi những con đường tâm linh, và v.v…

Ý nghĩa khác của tự ngã xãy ra trong thuật ngữ tính ích kỷ, nơi nó được liên hệ đến một vị thế tưởng tượng, quá cụ thể cứng chắc một cách sai lầm của sự tồn tại gọi là “sự tồn tại cố hữu” hay tự tínhVô minh bám chặc đến một sự phóng đại như vậy thật sự là cội nguồn của sự phá hoại, bà mẹ của tất cả những thái độ sai lầm - có lẻ chúng ta ngay cả có thể gọi là gian tà hiểm ác.  Để quán chiếu “cái tôi” lệ thuộc trên những thuộc tính tâm lý và vật lý, tâm thức này phóng đại nó thành sự tồn tại cố hữu, mặc dù thật sự những yếu tố tâm lývật lý được quán chiếu không hàm chứa bất cứ một đối tượng phóng đại như vậy.

Điều gì là vị thế thật sự của một chúng sinh?  Giống như một chiếc xe trong sự tùy thuộc trên những bộ phận của nó, chẳng hạn như bánh xe, trục xe, và v.v…, vì thế một chúng sinh được thiết lập một cách quy ước trong sự tùy thuộc trên tâm thứcthân thể.  Không có một cá thể được tìm thấy hoặc là tách rời khỏi tâm thứcthân thể hay trong tâm thứcthân thể.

CHỈ LÀ DANH XƯNG

Điều này là lý do tại sao “cái tôi” và tất cả những hiện tượng khác được diễn tả trong Đạo Phật như “chỉ là danh tự”.  Ý nghĩa của điều này không phải là “cái tôi” và tất cả những hiện tượng khác chỉ là chữ nghĩa, vì chữ nghĩa cho những hiện tượng này thật liên hệ đến những đối tượng thật sự.  Đúng hơn, những đối tượng này không tồn tại trong chúng và tự chúng; thuật ngữ ‘chỉ là danh tự’ xóa tan khả năng chúng được thiết lập từ tự chính phía đối tượng.  Chúng ta cần sự nhắc nhở này bởi vì “cái tôi” và những hiện tượng khác không hiện hữu đơn thuần bởi sự thiết lập của danh tựtư tưởngHoàn toàn mâu thuẩn.

Thí dụ, chúng ta nói rằng Đạt Lai Lạt Ma là một ông thầy tu, một con người, và một người Tây Tạng.  Có phải dường như rằng chúng ta đang nói về điều này không với sự liên hệ đến thân thể hay tâm thức của ngài mà chỉ về điều gì đấy riêng lẻ?  Suy nghĩ liên tục về điều này, dường như có một Đạt Lai Lạt Ma tách rời khỏi thân thể của ngài, và riêng biệt ngay cả tâm thức của ngài.  Hay tự quan tâm.  Nếu tên bạn là Jane, thí dụ thế, chúng ta nói, “thân thể của Jane, tâm thức của Jane,”  thế dường như đối với chúng ta là có một Jane người sở hữu tâm thứcthân thể của cô, và một thân thểtâm thức mà Jane làm chủ.

Làm thế nào chúng ta thấu hiểu rằng nhận thức này là sai lầm?  Tập trung trên sự kiện rằng không có điều gì trong tâm thứcthân thể có thể là “cái tôi”.  Tâm thứcthân thể là trống rỗng một “cái tôi” thực chất.  Đúng hơn, giống như chiếc xe hơi được thiết lập trong sự lệ thuộc trên những bộ phận của nó và và ngay cả không phải là nội dung của những bộ phận của nó, vì thế “cái tôi” lệ thuộc trên tâm thứcthân thể. Một “cái tôi”  không lệ thuộc trên thân thểtâm thứckhông tồn tại, trái lại một “cái tôi” được hiểu lệ thuộc trên thân thểtâm thức hiện hữu phù hợp với những quy ước của thế gian.  Thấu hiểu “cái tôi” loại này hoàn toàn không thể tìm thấy trong tâm thứcthân thể, và ngay cả không là nội dung của tâm thứcthân thể nhưng tồn tại chỉ qua năng lực của danh xưng của nó và tư tưởng của chúng ta, là hữu ích khi chúng ta cố gắng để thấy chính chúng ta như chúng ta thật sự là.

BỐN BƯỚC ĐỂ THÂN CHỨNG

Có bốn bước quan trọng đối với việc nhận thức rằng chúng ta không hiện hữu trong cách mà chúng ta nghĩ chúng ta như thế.  Tôi sẽ thảo luận những điều này trước tiên, và rồi thì trong chi tiết.

Bước thứ nhất là xác định những tin tưởng si mê phải được phản bác lại. Chúng ta cần làm điều này bởi vì khi chúng ta thực hiện những sự phân tích tìm kiếm chính mình trong tâm thứcthân thể hay riêng biệt khỏi tâm thức hay thân thể, và chúng ta không thể tìm thấy nó, chúng ta có thể kết luận một cách sai lầm rằng chúng ta không hoàn toàn tồn tại.

Bởi vì “cái tôi” hiện hữu trong tâm thức chúng ta được thiết lập trong nó và tự nó, nên khi chúng ta sử dụng những sự phân tích cố gắng để tìm nó và không thể tìm ra nó, nên dường như “cái tôi” hoàn toàn không hiện hữu, trái lại nó chỉ là “cái tôi” độc lập, sự tồn tại một cách cố hữu của “cái tôi”, mà nó không tồn tại.  Bời vì có một hiểm họa ở đây về sự sai lầm đến sự phủ nhận và hư vô chủ nghĩa, thế nên điều thiết yếu như bước đầu tiên là để hiểu những gì bị phủ nhận trong vô ngã.

“Cái tôi”  xuất hiện trong tâm thức chúng ta như thế nào?  Nó không xuất hiện để tồn tại qua năng lực của tư tưởng; đúng hơn, nó xuất hiện để hiện hữu một cách cụ thểChúng ta cần chú ý và xác định kiểu mẫu của sự lĩnh hội này.  Nó là mục tiêu của chúng ta.

Bước thứ haiquyết định, nếu “cái tôi” tồn tại trong cung cách mà dường như nó là, nó phải hoặc là một với tâm thứcthân thể hay riêng biệt khỏi tâm thứcthân thể.  Sau khi thừa nhận rằng không có khả năng nào khác, trong hai bước còn lại chúng ta phân tích để thấy hoặc là “cái tôi” và phức hợp thân/tâm có thể hoặc là một thực thể được thiết lập một cách cố hữu hay là những thực thể được thiết lập khác biệt một cách cố hữu.

Khi chúng ta thảo luận trong những phần tiếp theo, qua thiền quán chúng ta dần dần đi đến thấu hiểu rằng có những ảo tưởng với “cái tôi” thể hiện trong những thứ  này.  Tại điểm ấy, chúng ta có thể sẳn sàng nhận ra rằng một “cái tôi” tồn tại cố hữu không thể tìm thấy.  Đây là nhận thức thực chứng về vô ngã.  Rồi thì, khi chúng ta đã nhận ra rằng “cái tôi” không tồn tại một cách cố hữu, thì dễ dàng để nhận ra những gì là “của tôi” cũng không tồn tại một cách cố hữu (vô tự tính).

BƯỚC THỨ NHẤT:  XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU

Thông thường bất chấp điều gì xuất hiện trong tâm thức chúng ta, nó dường như hiện hữu từ chính phía của nó, một tư tưởng độc lập.  Khi chúng ta chú tâm đến một đối tượng – cho dù nó là chính chúng ta, một người khác, thân thể, tâm thức, hay một thứ vật chấtchúng ta chấp nhậnxuất hiện giống như điều này là điều kiện tối hậu, nội tại, thật sự như thế nào ấy.Điều này có thể được thấy một cách rõ ràng những lúc căng thẳng, chẳng hạn khi ai đấy bình phẩm về điều đấy mà ta không từng làm:  “Ông/bà làm hư hỏng như vậy – và – như vậy.”  Chúng ta đột nhiên nghĩ một cách rất mạnh mẽ “tôi đã không làm như vậy!”  Và chúng ta thậm chí có thể hét vào kẻ vu cáo.

“Cái tôi” xuất hiện như thế nào trong tâm thức chúng ta vào lúc ấy?  “Cái tôi” này mà chúng ta hãnh diện và yêu mến quá chừng dường như hiện hữu như thế nào? Làm sao chúng ta nhận thức thấu đáo nó?  Bằng việc phản chiếu trên những câu hỏi này chúng tathể đạt đến một ý thức về cung cách mà tâm thức lĩnh hội một cách tự nhiên và bẩm sinh “cái tôi” như hiện hữu từ chính phía của nó, một cách cố hữu.

Chúng ta hãy lấy một thí dụ khác.  Khi có một điều gì đấy quan trọng mà chúng ta đáng lẻ phải làm và chúng ta chực nhớ ra là chúng ta đã quên mất, chúng ta có thể nổi giận ngay trong tâm thức chúng ta:  “Ôi, cái trí nhớ tồi của tôi!”  Khi chúng ta nổi giận với tâm tư của chính mình, và “cái tôi” giận dữ ấy và tâm tư mà chúng ta giận dữ xuất hiện riêng biệt với nhau.

Điều cũng giống như thế xãy ra khi chúng ta cảm thấy khó chịu với thân thể chúng ta, hay một phần của thân thể, chẳng hạn như bàn tay của chúng ta.  “Cái tôi” giận dữ dường như có sự biểu hiện riêng của nó, trong nó và tự nó, riêng biệt khỏi thân thểchúng ta giận dữ.  Trên một trường hợp như thế chúng ta có thể quán sát làm thế nào mà “cái tôi” dường như tự nó đứng riêng biệt, như tự nó tiến hành, tự nó thành lập bởi cung cách của đặc tính riêng của nó.  Đối với ý thức như vậy, “cái tôi” không xuất hiện được thiết lập trong sự tùy thuộc trên tâm thứcthân thể.

Quý vị có nhớ lần nào khi chúng ta làm một việc tệ hại và tâm tư chúng ta nghĩ, “tôi thật sự đã làm mọi thứ rối rắm”?  Vào lúc ấy chúng ta đồng nhất với “cái tôi” có thực thể cụ thể, mà nó không phải tâm thức cũng như thân thể mà là điều gì đấy xuất hiện một cách mạnh mẽ hơn.

Hay nhớ lại thời gian khi chúng ta làm điều gì đấy thật tuyệt diệu hay điều gì đấy thật dễ thương xãy ra cho chúng ta, và chúng ta cảm thấy thật tự hào trong ấy.  “Cái tôi” này thật đáng giá, quá mến yêu, thật thích thú, và là đối tượng của sự tự quan trọng như vậy thật là rõ ràng một cách cụ thểsinh động.  Vào những lúc như vậy, ý nghĩa của “cái tôi” là đăc biệt rõ ràng.

Một khi chúng ta nắm bắt một sự biểu hiện hiển nhiên như vậy, chúng ta có thể làm nên một cảm giác sai lầm của “cái tôi” xuất hiện trong tâm thức chúng ta, và không để cho cung cách làm cho nó sức mạnh của nó nhỏ lại, chúng ta có thể thẩm tra, giống như từ một góc, nó có tồn tại trong một cách cụ thể hay không, nhưng nó xuất hiện.  Trong thế kỷ mười bảy, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm đã nói về điều này với sự trong sáng vô cùng:

Đôi khi “cái tôi” sẽ dường như hiện hữu trong phạm vi của thân thể.  Đôi khi nó dường như tồn tại trong phạm vi của tâm thức.  Đôi khi nó dường như hiện hữu trong phạm vi của cảm giác, phân biệt, hay những nhân tố khác.  Vào lúc chung cuộc của những kiểu mẫu đa dạng của hiện tướng, chúng ta sẽ kết luận một “cái tôi” đã tồn tại từ trong bản chất của chính nó, đấy là nó tồn tại một cách cố hữu (từ tự tính), rằng tự khởi đầu nó là tự thành lập, tồn tại một cách không khác biệt với tâm thứcthân thể, là thứ cũng được phối hợp như nước và sửa.  Đây là sự thực tập đầu tiên, sự xác định đối tượng bị phủ nhận trong quan điểm của vô ngãChúng ta nên hành động với nó cho đến khi kinh nghiệm sâu sắc sinh khởi.

Ba bước còn lại, được thảo luận trong ba chương tiếp theo, được hướng tới một loại thấu hiểu “cái tôi” loại này, mà chúng ta tin tưởng quá nhiều và là điều chi phối  quá nhiều đến thái độ của chúng ta, thật sự chỉ là một sự giả dối của sự tưởng tượng.  “Cái tôi” cụ thể này, hoàn toàn không tồn tại.  Để hành động đối với những bước tiếp theo,  điều thiết yếu là nhận ra và trụ với cảm giác mạnh mẽ về một “cái tôi” tự thiết lập.

Thiền Tập Quán Chiếu

1-    Tưởng tượng ai đấy chỉ trích quý vị điều gì đấy mà thật sự quý vị đã không có làm, chỉ một ngón tay vào quý vị và nói, “Ngươi đã làm hư hại như thế - như thế.”
2-    Hãy nhìn sự phản ứng của quý vị.  “Cái tôi” xuất hiện như thế nào trong tâm thức quý vị?
3-    Quý vị lĩnh hội trong cách nào?
4-    Hãy chú ý “cái tôi” dường như tự hiện hữu như thế nào, tự cấu thành, tự thiết lập bằng cung cách của chính đặc trưng của nó.
Cũng:
1-    Hãy nhớ lại một thuở khi quý  vị buồn nãn với tâm thức quý vị, chẳng hạn khi quý vị thất bại trong việc nhớ lại điều gì đấy.
2-    Ôn lại cảm giác của quý vị.  “Cái tôi” xuất hiện đến tâm thức quý vị lúc ấy như thế nào?
3-    Quý vị lĩnh hội nó bằng cách nào?
4-    Hãy chú ý “cái tôi” dường như tự hiện hữu như thế nào, tự cấu thành, tự thiết lập bằng cung cách của chính đặc trưng của nó.
Cũng:
1-    Hãy nhớ lại một thuở khi quý vị chán nãn với thân thể quý vị hay với một đặc trưng nào đấy của thân thể quý vị, chẳng hạn như tóc quý vị.
2-    Hãy nhìn vào cảm giác quý vị, “cái tôi” xuất hiện đến tâm thức quý vị như thế nào lúc ấy?
3-    Quý vị lĩnh hội nó bằng cách nào?
4-    Hãy chú ý “cái tôi” dường như tự hiện hữu như thế nào, tự cấu thành, tự thiết lập bằng cung cách của chính đặc trưng của nó.
Cũng:
1-    Hãy nhớ lại một thuở khi quý vị làm điều gì đấy tệ hại và quý vị đã nghĩ, “tôi đã thật sự làm ra một đống xà bần.”
2-    Lưu tâm đến cảm giác của quý vị.  “Cái tôi” xuất hiện đến tâm thức quý vị lúc ấy như thế nào
3-    Quý vị lĩnh hội nó bằng cách nào?
4-    Hãy chú ý “cái tôi” dường như tự hiện hữu như thế nào, tự cấu thành, tự thiết lập bằng cung cách của chính đặc trưng của nó.
Cũng:
1-    Hãy nhớ lại một thuở khi quý vị làm điều gì đấy thật tuyệt vời và quý vị nhận lấy niềm tự hào trong ấy.
2-    Thẩm tra cảm giác của quý vị.  “Cái tôi” xuất hiện đến tâm thức quý vị lúc ấy như thế nào?
3-    Quý vị lĩnh hội nó bằng cách nào?
4-    Hãy chú ý “cái tôi” dường như tự hiện hữu như thế nào, tự cấu thành, tự thiết lập bằng cung cách của chính đặc trưng của nó.
Cũng:
1-    Hãy nhớ lại một thuở khi điều gì đấy diệu kỳ xãy đến cho quý vị và quý vị nhận niềm vui sướng ấy.
2-    Hãy nhìn cảm giác của quý vị .  “Cái tôi” xuất hiện đến tâm thức quý vị lúc ấy như thế nào?
3-    Quý vị lĩnh hội nó bằng cách nào?
4-    Hãy chú ý “cái tôi” dường như tự hiện hữu như thế nào, tự cấu thành, tự thiết lập bằng cung cách của chính đặc trưng của nó.

Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11053)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14346)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11506)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12678)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12284)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11060)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10940)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13403)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11840)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13716)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11945)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11208)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12270)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12442)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20646)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12457)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12484)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11753)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11633)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22463)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13612)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29749)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11581)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16798)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12040)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16894)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12128)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17979)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12689)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13208)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14801)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22702)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10619)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14094)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13898)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13750)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13912)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13970)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14863)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13904)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18459)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22857)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15443)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17358)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22439)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14294)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12651)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11221)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17815)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13241)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13151)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18840)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17208)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13553)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12962)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14742)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14725)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15912)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13555)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27491)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant