Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ba Độc Tâm

02 Tháng Hai 201610:29(Xem: 8803)
Ba Độc Tâm

BA ĐỘC TÂM

Lama Zopa Rinpoche

Chân Như Việt dịch

Ba Độc Tâm

Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không  sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc, chẳng hạn như sân hận, một độc tố cực kỳ hiểm hại, tựa như ngọn lửa thiêu rụi hết thảy mọi phúc lạc. Ngọn lửa có thể tàn phá những vật dụng đẹp đẽ nhất, tài sản, nhà cửa; lửa giận có thể thiêu hủy chúng ta và gây xiết bao hiểm họa trong đời sống này.

Sân hận vì vậy là một nhân tố cực kỳ bạo lực đối với tâm, tối nguy hiểm đối với an lạc hạnh phúc của chính ta và những hữu tình khác.

Khi khởi sân, người ta nổi đóa với những người trong gia đình, chửi rủa, đánh đập họ thậm chí sát hại họ và có thể sát hại luôn những người xung quanh nữa. Khi tâm hung hãn bùng phát, người ta có thể giết chóc hàng trăm người, hàng ngàn thậm chí hàng triệu người – tâm sân hận đẩy con người vào sự nguy khốn của chết, của giết chóc hoặc bị giết chóc. Có nhiều thứ người ta thường làm khi nổi điên, chẳng hạn như đập phá đồ đạc. Chẳng lợi ích gì khi đập phá đồ đạc cả – ví dụ như bàn ghế, chén đĩa. Song một khi cơn điên giận nổi lên, đương sự đập phá cả những thứ này dù rằng đập phá thật vô bổvô dụng. Như vậy, chúng ta gây ra rất nhiều phiền não vô ích. Sân giận phá hủy tất cả những điều đẹp đẽ, nói cách đơn giản, nó cực kỳ hiểm hại đối với sự an hưởng cuộc sống.

Sự bám luyến tựa như mực đen vấy bẩn vào bộ trang phục đẹp hay vào bức họa, bản vẽ mỹ lệ của chúng ta. Khi mực đen vấy bẩn, nó che chướng bản vẽ đẹp đẽ khiến ta không thể thưởng thức được điều gì cả. Không giống như khi ta làm rớt một giọt nước vào bức tranh rồi lau đi, một khi mực đen đã nhuốm vào bức họa, nó sẽ bám chết vào giấy vẽ và che phủ mọi hình ảnh. Ta không thể thấy rõ ràng nữa. Bỗng dưng mà tách rời ngay mực đen vấy bẩn ra khỏi giấy vẽ là rất khó . Đây cũng chính là bản chất của sự bám luyến và là lý do vì sao thầy nói rằng nó cản trở khả năng nhìn thấy nét chữ hay hình vẽ trên giấy. Đây là một thí dụ về sự bám luyến sinh khởi và che chướng khả năng tri biết sự thật về chính mình. Nó che chướng sự thật về bản ngã và khả năng nhận chân sự thật về những người khác.

Tương tự như vậy, bám luyến hiện diện gây ra những ảo giác và người ta nhận diện bản thân bằng tri kiến lầm lạc về một cái tôi thực hữu tự tồn. Tri kiến sai lầm nhìn thấy ngã tướng hiện hữu thật có và nó lừa dối ta , khiến ta suy niệm hoàn toàn lầm lẫn về người khác, hoàn toàn trái ngược với thực tướng của họ. Bám luyến gây ra ảo giác, khiến ta thấy tướng trạng của vật và người hoàn toàn sai lạc. Ta thấy chúng theo đường lối trái ngược với thực tướng của chúng. Sự bám luyến đã che lấp khả năng nhận chân tánh giác của chính ta và kẻ khác.

Một cách khác để lý giải bản chất của bám luyến là nó giống như việc quý vị bị mắc kẹt, mặc dù đây chưa phải là ý thật mà chỉ là ví dụ. Nếu quý vị rớt vào cái hố nước thì có thể bơi mà thoát ra – đặc biệt là ở đây, chắc chắn mọi người đều bơi được một cách dễ dàng. Nhưng nếu trong hố chỉ có bùn nhơ và ta không thể nào bơi được, vậy thì sẽ khó thoát ra ngoài. Quý vị sẽ mắc kẹt hoàn toàn trong bùn nhơ và chết chìm vì không thể nào chui ra khỏi đống bùn đó. Đấy là một cách khác để diễn đạt bản chất của sự bám luyến và tâm ta bị ràng buộc vào nó như vậy đó….

Tựa như sân hận, bám luyến gây ra biết bao nhiêu rắc rối trong đời sống của ta và của người. Thứ nhất, khi tâm bị mắc kẹt trong tham ái chấp bám thì chưa bao giờ đó là vấn đề của riêng một cá nhân. Sự bám luyến giống như chất keo. Nếu tay ta dính đầy keo thì khi gặp bất cứ đối tượng nào quý vị cũng đều dính mắc nhiều rắc rối với đối tượng đó.  Dù cho sự vật có tinh tươm đến mấy thì khi xúc chạm, ta đều bám dính vào nó. Một cách khác nữa để giải thích là: quý vị bám luyến vào mọi thứ trên đời, quý vị không có tự do và ngay cả khi buông một thứ ra thì quý vị lại tóm ngay một thứ khác. Cứ như thể ngón tay ta như có mật ong hay keo dán, bám dính vô độ vào mọi thứ. Kể cả khi vứt bỏ một vật đi rồi, quý vị vẫn cứ luyến ái vào đó. Tham ái bám luyến hoành hành và gây ra biết bao rắc rối cho đời mình và đời người là như vậy đó.

Mọi chướng ngại trong đời đều khởi từ những niệm tưởng đầy ắp chấp bám. Những vấn đề xảy ra trong cuộc sống hàng ngày như bất hòa trong các mối quan hệ - gia đình, lứa đôi không hòa thuận được với nhau dù chỉ một ngày – tất cả những rắc rối như vầy đều do chấp bám mà sinh ra. Nếu từ đầu mà không có chấp bám thì những chướng ngại như thế đâu có xảy ra.

Rồi nhiều khi cũng chỉ vì tham luyến vào vật mà rất dễ nổi sân. Khi thứ mà quý vị tham luyến vào chẳng may có gì trục trặc, khi quý vị không giữ được nó, bị ai đó chiếm đoạt mất, hoặc khi có chuyện không hay này kia xảy ra, rất dễ nổi tâm sân và đố kỵ. Sân hận vô cùng tai hạisân hận chính là nhân tố khiến tham luyến trở nên hết sức nguy hiểm.

Rất dễ hiểu sân hận hiểm hại ra sao, song phức tạp hơn khi hiểu bám luyến độc hại như thế nào vì rằng nó cũng hơi khó nhận ra. Kỳ thực thì cũng không quá khó thấy, nó cũng khá rõ ràng. Quý vị trải nghiệm bao phiền não trắc trở rất nhiều phen mà không hề nhận ra, vì thế tri biết sự bám luyến tổn hại mình thế nào thật là khó, vì nó không dễ nhận diện. Nhận biết bám luyến vận hành ra sao, hậu quả cũng như tác hại của nó thế nào là cực kỳ quan trọng. Không chỉ bám luyến mà sân hận, vô minh cũng như bất kỳ loại vọng tưởng nào, ta luôn luôn phải điều nghiên vai trò của các loại vọng tưởng này và hậu quả tai hại của chúng. Thường xuyên kiểm soát và hiểu thấu đáo các vọng tưởng này là điều rất mực hệ trọng.

Bây giờ nói về vô minh. Như thầy đã giảng trước đó, khi tâm chấp bám khởi, nó che chướng thực tánh của ta và của người. Nói cách khác cái tâm này che chướng tự tánh của ngã và tha. Có nghĩa là tâm chấp bám làm gia tăng vô minh. Nó khiến cho vô minh, sân hận ngày một lớn mạnh. Vô minh là một thứ tâm hết sức nguy hiểm. Vào giấc tối, khi không có trăng, sao và cũng không có ánh đèn, trời tối như mực và quý vị cho rằng mình đang bước đi đúng lối, nhưng kỳ thực, quý vị đang bước trên sỏi đá và gai nhọn. Khi bị gai đâm vào chân, ta quỵ ngã vì thương tích. Ta cứ ngỡ có một bức tường che chắn bảo vệ mình khỏi vách đá lởm chởm mà không hề biết nguy cơ có thể ngã lộn nhào. Ta có biết đâu rằng chẳng hề có bức tường bảo vệ  nào cả và vách đá kia mới nguy hiểm làm sao.

Chúng ta du hành trong đêm tối với một tín tâm sai lạc. Vô minh nguy hiểm là thế và những quan niệm sai lầm lạc đã gây cho ta biết bao phiền toái chướng ngại. Vô minh tựa như một kẻ mang giữ những tri kiến lầm lạc, không thể thực hiện được điều gì rõ ràng và không tri biết mình sắp vấp ngã. Bản chất của vô minh giống như một kẻ không lĩnh hội được vô minh nguy hiểm đến cỡ nào. Đây chỉ là một ví dụ đưa ra để cho quý vị thấy vô minh tai hại là thế, song thực ra, không có cách gì có thể so sánh được với hiểm họa của vô minh. Một người dò dẫm trong tư tưởng lầm lạc, té nhào vào vách đá, rồi gãy chân, rồi tử vong v.v… – điều này cũng không là gì so với sự nguy hại tột cùng, không tưởng tượng nổi của vô minh, thứ chúng ta phải trải nghiệm qua thời gian dài đằng đẵng với vô vàn những nguy hiểm khác nữa và chúng ta phải kinh nghiệm không chỉ một mà là vô số lần. Khi ví von như vậy, ví dụ Thầy giảng về sự nguy hiểm của vô minh vẫn không thấm tháp vào đâu.

Vậy ba tâm này thường được gọi là “ba độc”. Gọi chúng là chất độc rất có ý nghĩa – rất hợp lý. Ví dụ, một người khi nuốt phải chất độc và độc tố đó đi vào dạ dày bên trong cơ thể, anh ta sẽ không còn khỏe khoắn nữa mà sẽ phát bệnh. Nhưng những độc tố đó chỉ là thứ bên ngoài, được làm ra bởi vật chất. Còn những độc tố khác như vô minh, sân hận và bám luyến lại là độc tố bên trong. Ăn các độc tố bên ngoài thì quý vị bị ốm đau hành hạchúng ta bị choán đầy ảo giác rồi nôn mửa, gây hại cho cuộc sống. Tương tự, chứa chấp ba thứ độc trong tâm, quý vị sẽ luôn luôn bị đau khổ phiền não giày vò.

Trước hết, khi tâm bị ba thứ độc ràng buộc, nó không còn minh mẫn cường tráng, nó là một thứ tâm bệnh hoạn. Rồi với ba thứ độc này, quý vị tạo tác những hành vi bất thiện, những ác nghiệp. Nói cách khác, quý vị tạo tác bất thiện nghiệp từ thân, ngữ và ý. Vì tạo bất thiện nghiệp, bằng những cách lầm lạc nên hậu quảtác hạichúng ta phải gánh chịu mãi mãi là chính phiền não khổ đau triền miên.  Luôn luôn có chướng ngại mọc ra và ta không thể thọ nhận nguồn phúc lạc, ngay cả khi kỳ vọng sẽ hưởng phúc lạc từ hành động đó. Ví dụ, một người ăn mật ong trộn chất độc, kẻ vô minh này không biết đó là mật ong độc hại mà chỉ thấy thứ mật ong này đầy tinh khiết vì vị thơm ngọt của nó, y cứ ăn hoài ăn hoài. Kết quả là gì?  Kết quả là thân thể y ngày càng phát bệnh và đau đớn ngày một nhiều.

Cũng giống như thế với bất kỳ độc tâm nào: sân hận, bám luyến hay vô minh. Bất kỳ hành động sai khuấy hoặc các tà hạnh tạo tác nào từ thân, ngữ và ý cũng đều giống như gã nuốt phải mật ong chứa chất độc kia. Y cứ nghĩ là mình đang thưởng thức món mật ong tinh khiết thơm ngọt. Y cho rằng mật này ăn vào chẳng làm sao hết. Vậy đó, cái tâm thông thường thì sẽ giống như thế!

Vì các hành vi của thân, ngữ, ý tạo tác từ ba độc tâm là sai quấy, bất tịnh, nên hậu quả luôn là phiền não. Những hành vi đó không mang lại nguồn phúc lạc cho quý vị. Các đau khổ bất hạnh về cả thể xác lẫn tinh thần mà quý vị phải gánh chịu trong đời này, từ lúc thoát thai đến giờ, tất cả chướng ngại phát sinh từ trước đến giờ  là hậu quả của ác nghiệp bất tịnh tạo tác từ ba độc. Do vậy, ba độc tâm là nguyên nhân cội rễ của mọi khổ đau phiền não.

Chính vì thế, nếu khôngphương pháp thực hành, không nương dựa vào chánh pháp mà nương dựa vào những yếu tố bên ngoài, quý vị sẽ không thể triệt phá được nguyên nhân khổ đau, tức ba độc tâm. Không gì có thể hủy diệt được chúng trừ việc thực hành chánh Pháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 686)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 543)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1749)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1520)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant