Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp - Tính Của Các Sự Vật

02 Tháng Hai 201610:16(Xem: 8371)
Pháp - Tính Của Các Sự Vật

Nguyệt Xứng
PHÁP - TÍNH CỦA CÁC SỰ VẬT

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


Bản dịch Anh: Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the Prasannapada of Candrakirti. Translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas. Routledge, 1979. ( pp 182-184)

*

Nhưng, ông hỏi, bản chất của thật tướng của các sự vật mà các giáo pháp của chư Phật trực nhập là gì ? Điều này được giải thích trong kệ tụng XVIII. 7 “Khi chẳng có đối tượng của tâm, thì chẳng có gì để ngôn ngữ quy chỉ tới”. Khi chấp thuận điều này, có thể có thêm các câu hỏi không? Dù điều này là như vậy, tuy thế, vẫn phải nói về thật tướng của các sự vật. Điều này được thực hiện bằng cách nói với ý niệm thứ nhì [= ý niệm thiết lập lí thuyết để nói về chân lí] (samaropatah). Mọi người chấp thuận thuật ngữ thế tục “thật” và “không thật” và v.v.,  chúng đến từ các diễn từ nói viết theo chân lí quy ước thế tục (vyavaharasatya).

Ngài Long Thọ diễn tả nó theo cách này.

XVIII. 9  Không tùy thuộc vào bất kì cái gì, tịch tĩnh, không hiển lộ trong vai trò các sự vật được đặt tên, vượt ngoài cấu trúc của tưởng, không có các hình dáng biến đổi, như vậy là nói về thật tướng của các sự vật. [Bản dịch của Mervyn Sprung]

XVIII.9  Không quan liên tùy thuộc tới bất kì sự vật, tịch tĩnh, không bị ý niệm phân biệt hoá bởi trình diễn ý niệm phân biệt, không đối xử sai biệt, và không tạo thành sai biệt. Đây là các tướng trạng của pháp tính [= bản miêu tả về kẻ đạt chân lí Phật giáo] (tat tattvasya laksanam) [ Bản dịch của Kenneth K. Inada]

Không tùy thuộc vào bất kì cái gì (aparapratyaya) có nghĩa rằng trong thật tướng của các sự vật thì nó không tùy thuộc vào bất kì cái gì; nó thì được thành tựu không do sự trung gian, và không bởi sự chỉ dạy của một kẻ khác. Những kẻ với khiếm khuyết về thị giác nhìn thấy [trong tâm] các sợi tóc, muỗi độc, con ong, và v.v., mà chúng vốn không hiện hữu. Ngay dù được chỉ dạy bởi các kẻ có thị giác tốt thì các kẻ thị giác khiếm khuyết vẫn không có khả năng nhận thức thật tại tính / pháp tính của các sợi tóc hư huyễn, nghĩa là chúng không có khả năng không nhìn thấy nó ngay dù các kẻ có thị giác tốt không nhìn thấy nó. Nói chính xác hơn chúng thông hiểu một cách lí thuyết, từ chỉ dạy của các kẻ có thị giác tốt, đơn giản rằng các sự vật như thế đều là các huyễn tượng do thị giác. Tuy nhiên, khi các kẻ chịu khổ vì có khiếm khuyết trở thành các cá nhân có con mắt trí tuệ, được chữa lành bệnh bởi các ngôn từ của sự nhìn thấy phi trung gian các sự vật là vô tự tính, một cách bất khả luận bác, lúc đó chúng thật chứng một cách trực tiếp và để chúng nhận rằng [khi chưa thật chứng] thật tại tính /pháp tính của các sự vật như thế hoàn toàn không được nhìn ra. Nói vậy là đủ cho câu “ Không tùy thuộc bất kì cái gì ’’. Pháp tính của các sự vật là chân lí của các sự vật.

Pháp tính của ‘tịch tĩnh’(santa; at peace) là hoàn toàn vô tự tính tương tợ như các sợi tóc hư huyễn [cũng vô tự tính] mà các kẻ có thị giác tốt không nhìn thấy.

kế tiếp biểu từ ‘không xuất hiện trong vai trò sự vật được đặt tên’. ‘Sự vật được đặt tên’ nghĩa là ngôn ngữ tạo ra các sự vật với các ý nghĩa. ‘Không xuất hiện trong vai trò sự vật được đặt tên’ nghĩa là không thể diễn tả bằng cách dùng lời nói.

‘Vượt ngoài cấu trúc của tưởng’ (nirvikalpa; vô phân biệt). Cấu trúc của tưởng là hoạt động bẩm sinh/ câu sinh của tâm. Thoát khỏi cấu trúc của tưởng là thật tướng của các sự vật thì vượt ngoài cấu trúc của tưởng.

Như kinh văn có nói: Bởi vì tâm niệm phân biệt là sự lang thang của tâm, pháp tính của sự vật là, không có tâm niệm phân biệt, là không bị tâm niệm phân biệt hoá.[1]. Kinh nói ‘Gì là chân lí tối hậu? Nơi mà không có sự lang thang của tâm, làm cách nào có thể thốt ra ngôn từ?  Đây là ý nghĩa của cái ‘vượt ngoài cấu trúc của tưởng’.

Một sự vật được nói là ‘có hình dáng biến đổi’ có các hình dáng khác nhau. Điều này nghĩa là cái gì không có hình dáng khác nhau (anarnatha) là bất biến, không có các hình dáng bội thù, sai biệt.

Như có nói trong Nhập nhị đế kinh/ Nhập niết bàn kinh (Satyaadvayavatara Sutra): ‘Văn thù sư lợi giải thích cho Thiên tử: trong chân lí tối hậu tất cả các nguyên tố / giới [sáu đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức] đều có cùng một bản chất bởi vì chẳng được tạo ra, chẳng được sinh ra trong bất kì ý nghĩa nào, chúng có cùng một bản chất. Đó là tại sao ? Bởi vì, trong chân lí tối hậu, tất cả các nguyên tố / giới chẳng bị tạo thành sai biệt trong niết bàn do từ chẳng sinh khởi từ phương diện tự tính theo bất kì ý nghĩa nào. Này, Thiên tử, ngay cả hư không trong một cái bình đất sét cũng giống như hư không trong một cái bình trang trí bằng ngọc, cả hai trong trạng thái của hư không, trong chân lí tối hậu chẳng bị tạo thành sai biệt, này Thiên tử, một cách tương tợ, hiện hữu bị phiền não, trong chân lí tối hậu, chẳng sinh khởi trong bất kì ý nghĩa nào; sự tịnh hoá cũng chẳng sinh khởi trong bất kì ý nghĩa nào. Chu kì sinh tử tự nó là, trong chân lí tối hậu, cái chẳng sinh khởi. Ngay cả niết bàn trong chân lí tối hậu hoàn toàn đồng nhất với chẳng sinh khởi / vô sinh; trong nó trong chân lí tối hậu, chẳng có yếu tố có thể tạo thành sai biệt. Đó là tại sao ? Bởi vì trong chân lí tối hậu, tất cả các nguyên tố của hiện hữu / giới (sáu đại) là tuyệt đối bất khả dị biệt’.

Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật. Nó là bởi vì vô tự tính là sự đồng nhất về bản chất trên phương diện tự tính trong tất cả các sự vật. Sự minh giải chi tiết như thế có thể có từ cùng một nguồn. Như vậy là đầy đủ về con đường mà các thánh trí, những kẻ đã đánh bại chu kì sinh, già và chết, nói về thật tướng của các sự vật.   

---------

The true way of things

*

But, you ask, what is the nature of ‘the way things really are’ which the teachings of the revered ones are intended to penetrate to? This is explained in the verse ‘When the object of thought is no more, there is nothing for language to refer to’. When this obtains what further questions can there be? Though this is so, none the less the way things are really must be spoken of. This is done by speaking in a second sense (samaropatah).  One accepts the everyday (laulika) terms ‘real’, ‘not real’ and so on which are drawn from the world of transactional discourse (vyavaharasatya).

Nagarjuna expresses it this way.

XVIII.9  Not dependent on anything other than itself, at peace, not manifested as named things, beyond thought construction, not of varying form -- thus the way things are really is spoken of (tat tattvasya laksanam).

Not dependent on anything other than itself (aparapratyaya) means that in the way things really are one is not dependent on anything, it is to be attained without mediation and not by the instruction of another.  Those with an optical defect see hairs, gnats, bees and so on which do not exist. Even though instructed by those of sound vision they are incapable of realizing the true nature of illusory hair as it is, that is, they are not capable of not seeing it even as those of sound vision do not see it. Rather they understand theoretically, from the instruction with sound vision, merely that such things are optical illusions. When, however, those suffering from the defect become people with the eye of wisdom, cured by the balm of unmediated seeing are irrefragably without substance, then they realize directly and for themselves that it is the true nature of such things not to be seen at all. So much for the phrase ‘Not dependent on anything other than itself.’ The true nature of things (svarupa) is the way things are truly (tattvam).

The true nature of ‘at peace’ is to be entirely without self-existence like the illusory hairs not seen by those of sound vision.

And then expression ‘not manifested as named things’ (prapancair aprapancita; ‘Inexpressible in verbal language’ would be an alternative translation) means inexpressible by verbal utterance). ‘Named things’ means that language gives rise to things with meanings. ‘Not manifested  as named thing’ means inexpressible in verbal utterance.

‘Beyond thought construction’ (nirvikalpa). Thought construction is the innate activity of  mind. To be free of that is the way things are beyond thought construction. As the sutra says: ‘What id the higher truth? Where nothing is happening, not even knowledge, how could there be any utterance of words? This is what ‘beyond thought construction’ means.

Something which is said to be ‘of varying form’ has different forms. This means that what is not of varying form (ananartha) is invariable, does not have multiple, differing forms.

As it is said in the Satyadvayavatara Sutra: ‘Manjusri explained to Devaputra: In higher truth, all the putative elements of existence are of the same nature because it in not being produced, in not being born in any sense at all, they are the same nature. Why is that? Because, in higher truth, all the element of existence become undifferentiated in nirvana from not really arising in any sense at all. Even as, Devaputra, the space in a clay jar is the same as the space in a bejewelled jar, both being of the nature of space, in higher truth undifferentiated, similarly, Devaputra, afflicted existence, in higher truth, does not arise in any sense; nor does purification arise in  any sense. The birth - death cycle itself is, in higher truth, one with non-arising. Even nirvana is in higher truth absolutely the same as non-arising; in it higher truth, there is no differentiable factor. Why is that?  Because, in higher truth, all element of existence are absolutely undifferentiable.’

In this sense is invariableness to be understood as a characterization of the way things really are. It is because the absence of a self-existent nature is essentially one in all things. Further such exposition can be had from the same source. So much for the way those wise ones, who have vanquished the cycle of birth, old age and death, speak of the way things really are.

----------- 

Chú thích

Nagarjuna / Long Thọ  (c.150 - 250) ; Aryadeva / Thánh Thiên  (c.170 - 270) ; Buddhapalita / Phật Hộ (c. 470 - 540); Bhavaviveka / Thanh Biện (c. 500.570) ; Candrakirti / Nguyệt Xứng (c. 570 - c.650);  Santideva / Tịch Thiên (c.700) ; Santaraksita / Tịch Hộ  (725-788) ; Atisa ( 982- 1054) ; Prajnakaramati ( c.950-1000) ; Tsongkhapa (1357-1419)

Vô Trước / Asanga  (310 - 390) Thế Thân / Vasubandhu (320 - 400) . Cưu ma la thập ( 344 - 413)  Tăng Triệu / Seng-chao  (383 - 414) ; Huyền Trang / Hsuan - tsang (600 -664)

*

XVIII.9 . Non-conditionally related to any entity, quiescent, non-conceptualized by conceptual play, non - discriminative, and non - differentiated. These are the characteristics of reality  (i.e., descriptive onf one  who has gained the Buddhist truth).

(translated by Kenneth K. Inada)

XVIII.9  Không quan liên tùy thuộc tới bất kì sự vật, tịch tĩnh, không bị ý niệm phân biệt hoá bởi trình diễn ý niệm phân biệt, không đối xử sai biệt, và không tạo thành sai biệt. Đây là các tướng trạng của pháp tính [= bản miêu tả về kẻ đạt chân lí Phật giáo] (tat tattvasya laksanam) [Bản dịch của Kenneth K. Inada]

-------

the true nature of things: dharmata : pháp tính

reality: dharmata : pháp tính ; thật tại tính; thật tại

the everyday : laulika; thế tục

the world of transactional discourses ( vyavaharasatya) : chân lí thế tục

the absence of  a self-existent  nature: vô tự tính ; tự tính không

all the element of existence”:  các nguyên tố; các giới (dhatu) : đất, nước, gió , lửa , không , thức ; sáu đại

give rise to something (formal) cause something (to happen)

Samaropa: ý niệm thiết lập theo lí thuyết = ý niệm thứ nhì = cái không hiện hữuhiện hữu

samaropa: what does not really exist to be existent;

apavada is to hold what in reality exists to be non-existent

Therefore the concepts of  samaropa and apavada are used in order to reveal that both realism and nihilism are illusory

Satyadvayavatara sutra: Nhập nhị đế kinh ; Nhập niết bàn kinh; Nhị đế liễu đạt kinh; cũng được biết đến dưới tên :Thế tục đệ nhất nghĩa sớ kinh (Samvrtiparamarthanirdesa-sutra)

chú thích [1]

Bản dịch Việt căn cứ trên bản dịch Sanskrit- English của Mervyn Sprung. Trong bài này, có một số đoạn dịch giả Mervyn Sprung không dịch, nên độc giả không thấy được toàn thể ngữ cảnh pháp thoại của ngài Nguyệt Xứng.

Bản Việt thêm vào một đoạn trong Minh cú luận “Như kinh văn có nói: Bởi vì tâm niệm phân biệt là sự lang thang của tâm, pháp tính của sự vật là, không có tâm niệm phân biệt, là không bị tâm niệm phân biệt hoá.[1]. Câu này trích từ bài: Tsong Khapa. Giải thích Trung luận. Bài tụng kính lễ mở đầu Trung luận  (Bài 2)

Minh cú luận, giải thích về “tịch tĩnh -- tự do cách tuyệt cấu trúc của tưởng” nói:

< Khi bạn tri nhận thật tướng của duyên khởi, không có sự tham dự của tâm hoặc các tiến trình tinh thần/tâm ý.>

Sự tham dự trong ngữ cảnh này, theo Nhập Trung Đạo Giải Thích của Nguyệt Xứng (Madhyamakavatara-bhasya) là sự lang thang vì nó được nói rằng sự lang thang của tâm và các các biến cố tinh thần (mental episodes) thì bị chấm dứt. Minh Cú luận nói trong lãnh vực này:

< Bởi vì tâm niệm phân biệt (conceptual thought) là sự lang thang của tâm, thật tướng của các sự vật, là tự do cách tuyệt điều đó (= lang thang của tâm), thì không bị tâm niệm phân biệt hoá (conceptualized). Kinh nói rằng,  “Chân lí tối hậu là gì? Nơi không có sự lang thang của tâm không có nhu cầu nói về các lời” (Bồ tát tạng kinh; Bodhisattvapitaka-sutra).>

< Since conceptual thought is the wandering of mind, the way things really are, being free from that , is not conceptualized. Sutra says, “What is the ultimate truth? Where there is no wandering of mind there is no need to talk about words.>

----------

Phụ Bản 1: Lược trích từ -- Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí . Bài 3 . Phân tích về Ngã và Vô ngã 

Chống lạihội thông hiểu sai lầm

Từ tụng 9 trở đi, Ngài Long Thọ cung cấp những cách thức để chống lại sự hiểu sai tính không, hoặc chân lí tối hậu.

Tụng 9

Không thể nhận biết từ cái khác, tịch tĩnh,

Không sinh bởi cấu trúc của tưởng,

Không bị hữu niệm hoá, không bị phân biệt,

Đó là đặc tính của pháp tính/thực tại tính.

Bài tụng này trình bày năm đặc hữu chính của chân lí tối hậu. Về căn bản, tụng khẳng định rằng như thị tính vượt ngoài tầm nhìn của ngôn ngữtâm niệm (Basically, the stanza is stating that suchness lies beyond the purview of language and thought). Không giống như các đối tượng hàng ngày—nơi chúng ta có thể phân biệt giữa một sự vật và các thuộc tính của nó – tính không chỉ là thuần phủ định về hiện hữutự tính là cách tuyệt với bất cứ một sự phân biệt nào như thế. Nó hiện hữu trong tính cách của một pháp vị đơn biệt (single taste). Điều này không có nghĩa là như thị tính của tất cả các hiện tượng hiện hữunhất như (one). Mặc dù mỗi một và mỗi mỗi hiện tượng đơn biệt đều có như thị tính, điều đó chỉ có nghĩa là tất cả các hiện tượng đều có chung bản chất chẳng có hiện hữutự tính [=vô tự tính]. Đó là ý nghĩa của bài tụng này.

(It exists in the manner of a single taste. This does not mean that the suchness of all phenomena exists as one. Although each and every individual phenomenon has suchness, that thus means all phenomena share the nature of being empty of intrinsic existence. That is the meaning of this stanza)

------------------

Phụ Bản   Bổn Vô / Chân Như
Xin nhớ đến lời Đại sư Tăng Triệu (374 - 414) (tịch lúc 31) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:
“Bổn vô / Chân như, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa.
Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô / Chân Như chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô /Chân Như, chẳng phải có ý làm thành vô (có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô / Chân Như này nó vượt ngoài cái có và không tương đối).
Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.
duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH.
Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.
Vì bổn vô / chân như là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng , pháp tánh , tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn  Vô / Chân như.”

(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, trong CHƯ KINH TẬP YẾU, trang 470 - 471) ..

*Bổn vô : thời ngài La thập dịch là bổn vô ; về sau dịch là Chân như

-----------

Giới hạn của ngôn ngữ  ( Nguyệt Xứng. Minh cú luận.p.179)

Và từ Chính định vương kinh / Nguyệt đăng tam muội kinh (Samadhirajasutra):

“Khi Đức Phật, thánh giả, quốc vương của chân lí, vị khai hiển của tất cả các chân lí xuất hiện, điệp khúc thì được vang lên từ cây cỏ, cây con và cây lớn và cây nhỏ, từ sỏi đá và các núi non: tất cả các tập hợp của đời sống đều là tính không / tính chân không diệu hữu”

“Bất kì xa xôi cách nào chỉ thuần các đơn vị chữ viết, lời nói vươn tới cõi thế tục, tất cả đều là tính không/ tính chân không diệu hữu, chẳng có cái chi là thật [ thật = chẳng biến dịch]; và  vang xa là tiếng gọi của đức Phật, vị hướng dẫn và vị thầy của tất cả loài người”.

*  

And from the Samadhirajasutra:

‘When Buddha, the sage, the king of truth, the revealer of all truths appears, the refrain is sounded from grass and bush and tree and plants, from the rocks and the mountains: all element of existence are without being’.

“Howsoever far mere words reach in the world realm, all are without being, none is real; and so far resounds the call of the realized one, the guide and teacher of all men.’

------

Niết bàn

Khi chư Phật nhập niết bàn, đại lạc tối hậu, đó là sự an tĩnh của các cấu trúc của tưởng, chư Phật tương tợ như các thiên nga huy hoàng trong bầu trời, tự thong dong trong hư không hoặc trong chân không diệu hữu của hư không trên đôi cánh của tích tập phúc đứctrí tuệ; kết quả nên biết đó là bởi vì chư Phật không tri nhận các đối tượng là các tướng trạng, không có ‘Chân Lý’ gắt gao bất kỳ là cái gì quan liên đến sự nô lệ hoặc sự tịnh hoá đã được giảng dạy giữa hoặc cho cõi trời hoặc cõi người dù là bất kỳ cái gì. 
*
When the illustrious Buddhas are in nirvana, the ultimate beatitude, which is the coming to rest of named things as such, they are like kingly swans in the sky, self-soaring in space or in the nothingness of space on the twin wings of accumulated merit and insight; then it should be known , that, because they do not perceive objects as signs, no rigid ‘Truth’ whatsoever either concerning bondage or purification has been taught either among or for any gods or men whatsoever.

*Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. Prasannapada of Candrakirti . Translated by Mervyn Sprung -- p. 262. (Nguyệt Xứng. Minh Cú luận
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3496)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4522)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4576)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7350)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2968)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3809)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4228)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3687)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5068)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6694)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4128)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5344)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3790)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4537)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3553)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4396)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3847)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3878)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4529)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3841)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4645)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4213)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6116)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4956)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4829)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5672)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3655)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4044)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4592)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3150)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4767)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4302)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4744)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4498)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4608)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7226)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5215)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5010)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4600)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5619)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4883)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5494)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5623)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant