Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại BiTrí Tuệ (bài 1)

13 Tháng Ba 201615:49(Xem: 8488)
Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ (bài 1)

Nguyệt Xứng (c. 570 - 650)
NHẬP TRUNG ĐẠO:
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BITRÍ TUỆ
Giới thiệu bản dịch Việt (Bài 1)

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with  Commentary by Jamgon Mipham. Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.

Nhập Trung ĐạoCon Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ


Đức Phật giảng bộ kinh Bát Nhã trong thời chuyển pháp luân thứ nhì. Ngài Long Thọ (c.150-250) viết “Các tụng căn bản về Trung Đạo” (Trung Luận) để trình bày tóm tắt bộ kinh Bát Nhã. Ngài Nguyệt Xứng (c.570-650) viết Minh cú luận (Prasannapada) để giải thích Trung Luận -- mỗi chương và mỗi tụng. Ngài Nguyệt Xứng cũng viết Nhập Trung Đạo (Madhyamakavatara) gồm có 331 tụng, trình bày 10 địa Bồ tátTrạng Thái Phật, địa 11. Địa 6 có 226 tụng, Địa 11 có 56 tụng;và 9 địa còn lại chỉ có 49 tụng. Ngài cũng viết Giải thích Nhập Trung Đạo (Madhyamakavatarabhashya). Bản này Louis de La Vallé  Poussin dịch một phần sang Anh ngữ (1907, 1910, 1911). Nhập Trung Đạo không có bản Hán dịch.

Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề. Nhập Trung Đạo căn cứ vào Các tụng căn bản về Trung Đạo, Vòng hoa quý (Ratnavali; Precious Garland), Tinh yếu của các kinh (Compendium of Sutras) của ngài Long Thọ; và Thập địa kinh (Dashabhumikasutra)

2.

Ngài Nguyệt Xứng giới thiệu Trung Luận của ngài Long Thọ:

Điểm xuất phát, chủ đềquan tâm tối hậu của Trung Luận của Long Thọ 

Bộ luận tuyệt vời chúng ta sắp thảo luận là bộ luận khởi đầu với kệ tụng ‘Không từ chính chúng, cũng không từ cái khác, cũng không từ cả hai…”

Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì. Trong Nhập Trung Đạo [Nguyệt Xứng. Nhập Trung Đạo/ Madhyamakavatara] , điều được khẳng định là trí tuệ siêu việt của đấng toàn giácđiểm xuất phát từ một bản nguyện phát bồ đề tâm bắt nguồn từ đại bi, và được hỗ trợ với sự lý hội thông hiểu vượt trên tính nhị nguyên.

Trong quan niệm này ngài Long Thọ, nhận biết chính xác làm cách nào  giảng dạy trí tuệ siêu việt, đã tăng trưởng bộ luận này do lòng đại bi và cho sự giác ngộ của các người khác. Nền tảng của bộ luận này, có thể nói là “Một bộ luận đáng tin cậy có một giáo pháp là một căn cứ vững mạnh để chế ngự các phiền não tai hại và để tập quen vượt qua các biến dịch thăng trầm của đời sống. Hai phẩm tính này không được tìm thấy trong bất kỳ các bộ luận khác”

Ngài Long Thọ cho chúng ta một tổng quan về chủ đềquan tâm tối hậu của bộ luận sâu sắc chúng ta sắp thảo luận. Với tính phân minh chính xác của thánh trí, và ý nguyện tôn kính, bằng một bộ luận, vị thầy vô thượng, vị toàn giác không hề ly cách với tồn sinh và chân lý của thánh trí, ngài nói

“Tôi đỉnh lễ đấng toàn giác, vị thầy vô thượng của các vị thầy, ngài thuyết giảng

Cái gì duyên khởi,

Không diệt, không sinh, không đoạn, không thường,

Không đến, không đi, không sai biệt, không đồng nhất

niết bàn tịch tĩnh hoàn toàn, không có các cấu trúc của tưởng [về hiện hữu tự tính và tính nhị nguyên]”

Duyên khởi [= thật tướng của sự vật], trong tướng trạng miêu tả bởi tám phương diện “không diệt, không sinh” và các tương tự, là chủ đề của bộ luận này.

Quan tâm tối hậu của bộ luận này được minh bạch khẳng định là niết bàn (nirvana) : sự tịch tĩnh đến để làm an tĩnh các cấu trúc của tưởng / các phương diện của các sự vật được đặt tên (sarvaprapancopasama).

Lời kính lễ được ghi trong các từ ngữ “Tôi đỉnh lễ vị thầy vô thượng của các vị thầy”.

3.

Nay nói về Tụng mở đầu Trung Luận. Bản Hán dịch Trung Luận của ngài Cưu ma la thập là một bản dịch rất tốt. Thầy Tuệ Sỹ , trong Huyền Thoại Duy Ma Cật (2008) có nói về cách đọc “Thiện diệt chư hý luận” trong bản Hán dịch Trung Luận của ngài Cưu ma la thập. Do thế, tôi có bài viết “Lí tính Duyên khởi trong tụng mở đầu Trung luận”, đăng trên Thư Viện Hoa Sen ngày 17.12.2011, giới thiệu quan điểm của Thầy Tuệ Sỹ trong cách đọc “thiện diệt chư hý luận”, và cũng giới thiệu các bản dịch Sanskrit - English kệ tụng mở đầu này, đều nói tới duyên khởitịch tĩnh của niết bàn để kính lễ Đức Phật.

Kệ tụng mở đầu này không hàm ý chỉ kính lễ Đức PhậtĐức Phật khéo diệt các hý luận. Như vậy, cách đọc sai “thiện diệt chư hý luận” thành “khéo diệt các hý luận” do một bản dịch Việt phổ biến khiến rất nhiều sách báo Phật học tiếng Việt không hề nói đến tịch tĩnh của niết bàn khi nói đến Tụng kính lễ mở đầu Trung Luận .

*

Lược trích từ bài viết-- Lí tính Duyên khởi trong tụng mở đầu Trung luận:

< Về bài tụng này, do ngài La Thập dịch Phạn-Hán và câu “năng thuyết thị nhân duyên, thiện diệt chư hí luận” trong các bản dịch Việt, Thầy Tuệ Sỹ có giải thích trong “Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật” như sau:

“… Cho nên, mở đầu Trung luận, Long Thọ tôn kính Phật trong ý nghĩa là vị Chính giác đã thiện xảo một cách tuyệt vời tuyên bố lí tính duyên khởi. Mà lí tính duyên khởi ấy vốn không là cái diệt tận, không là sinh khởi; không là gián đoạn, không là thường hằng; không là nhất thể, không là đa thù; không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Chính lí tính duyên khởi ấy là diệu lạc của Niết bàn, là tĩnh chỉ của mọi hí luận”. (23) (Tuệ Sỹ, trang 263)

“Chú thích 23: MK…pratiyasamutpadam prapancopasmam sivam, duyên khởi là sự tĩnh chỉ của hí luận, là diệu lạc (của Niết bàn). Những từ này đồng cách với duyên khởi nên được hiểu là những phẩm định của duyên khởi. Hán dịch của Cưu-ma-la-thập (năng thuyết thịnhân duyên, thiện diệt chư hí luận. Vì theo ngữ pháp Hán thông thường, trong đó thiện (Skt. sivam: diệu lạc của Niết bàn) được hiểu như là trạng từ, nên câu kệ này thường được dịch Việt là: (đức Phật nói duyên khởi, là để) khéo léo diệt trừ các hí luận”. (Tuệ Sỹ, trang 263)>

4

Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV viết “Mặt trời chiếu sáng ba phương diện chính tín”, ca tụng 17 Đại Sư đại học Nalanda. Ngài ca tụng ngài Nguyệt Xứng và ngài Tịch Thiên như sau:

Tụng 6. Tôi kính lễ ngài Nguyệt Xứng, người phổ truyền tất cả các đạo lộ của kinh điển và tantra. Ngài vô cùng thiện xảo trong giảng dạy các phương diện trí bát nhã và tâm bồ đề vạn hạnh của Trung Đạo -- sự liên hiệp của sắc tướngtính không trục xuất hai cực đoan -- bằng phương tiện hữu hiệu của duyên khởi đó là chỉ thuần lí tính nhân duyên.

Tụng 7. Tôi kính lễ ngài bồ tát Tịch Thiên (Shantideva), vô cùng thiện xảo khai mở tập hội của các học viên đại phúc duyên theo đạo lộ tuyệt hảo của đại bi đó là sử dụng mĩ diệu nhất các phương thức lí luận trí bát nhã và tâm bồ đề vạn hạnh.

5

“Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi” là một hiện tượng / biến cố / pháp / tình cảnh / kịch bản (phenomenon/ event/ dharma/situation/ scenario). Con người tự do mới là vốn quý cho xã hội. Con người nô lệ chỉ là vốn quý cho chủ nô mà thôi.

Ngài Nguyệt Xứng viết:

“Nền tảng của bộ luận này [Trung Luận], có thể nói là “Một bộ luận đáng tin cậy có một giáo pháp là một căn cứ vững mạnh để chế ngự các phiền não tai hại và để tập quen vượt qua các biến dịch thăng trầm của đời sống. Hai phẩm tính này không được tìm thấy trong bất kỳ các bộ luận khác”.

Ngài Long Thọ nói trong Hồi Tránh Luận: Duyên khởi, Tính Không, và Trung Đạo là đồng một nghĩa. Thế nên giáo pháp Duyên khởi được nói đến trong tụng mở đầu Trung Luận là “một căn cứ vững mạnh để chế ngự các phiền não tai hại và để tập quen vượt qua các biến dịch thăng trầm của đời sống”.

Đối diện “Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi” là các cấu trúc của tưởng có tính nhị nguyên , tin rằng các hiện tượnghiện hữu tự tính, có tính  độc lập, tự lập, thành lập do sức mạnh của chính nó, không do nương nhờ các yếu tố khác. Hoặc tin rằng nó thường hằng / thường tại. Hoặc tin rằng nó đoạn diệt, nghĩa là tàn tạ, đi đến chấm dứt, không còn nữa. Cả hai, tin thường hằngđoạn diệt, nghĩa là rũ tay áo đứng xem.

Tính bất tử của giáo pháp Phật giáo / Cam lộ của chính pháp là: Không đồng nhất không dị biệt, không thường hằng không đoạn diệt; đây là giáo pháp của chư Phật (Trung Luận  XVIII.11)

Như vậy đối diện hay sống trong “Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi” thì ta và kẻ khác không là đồng nhất, không là dị biệt; ta và môi trường sinh sống không là đồng nhất, không là dị biệt.

“Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi” thì không thường hằng / thường tại, cũng không tàn tạ đi đến hoại diệt. “Trí chẳng trụ hữu vô, Mà khởi tâm đại bi (Kinh Lăng già). Hữu : thường hằng. Vô: đoạn diệt.

Giáo pháp của Phật về nguyên nhânhiệu quả, tỉ dụ hạt giống và mầm -- nguyên nhân không trở thành mầm; mầm không hoàn toàn đồng nhất với nguyên nhân, không hoàn toàn dị biệt với nguyên nhân .

Nguyên nhân của “Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi” không trở thành “Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi”, và “Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi” cũng không hoàn toàn đồng nhất, cũng không hoàn toàn dị biệt với nguyên nhân của nó.

Giáo pháp nói mầm không thể nảy mầm mà không có hạt giống, và mầm không nảy mầm từ bất kì hạt giống nào, nghĩa là giữa hạt giống và mầm có tương quan thích hợp.

Học giới Phật giáo Tây Tạng giới thiệu ngài Nguyệt Xứng là nhà Trung Quán Hệ Quả / Nhà Hệ Quả (Prasangika; Consequentialist). Nhà Hệ Quả chủ trương rằng mỗi người nên xem xét tất cả các hệ quả của chủ trương của mình. Chúng ta cũng nên xem xét tất cả những hệ quả của chủ trương của mình khi sống giữa lòng cuộc đời.  

Đối với các hữu tình tạo các ác hạnh một cách đùa giỡn nhởn nhơ, Đức Phật giảng có một Ngã để giúp chúng không sa vào các địa ngục . Đối với các hữu tình, do tập khí, tự nhiên tạo các các thiện hạnh , lánh xa các ác hạnh , Đức Phật giảng Vô ngã , không có ngã . Đối với các hữu tình  gần tới niết bàn , Đức Phật giảng chẳng có ngã , chẳng có vô ngã .

 

6

Khi mà hư không còn

Tôi mong tôi vẫn còn

Chung sức với mọi người

giúp nhau cùng thoát khổ .

 “Chúng ta tích tập phúc đức trên căn bản của phương diện hiển lộ (apparent aspect) của duyên khởi và tích tập trí tuệ trên căn bản của phương diện rỗng thông/ chân không diệu hữu (empty aspect) của duyên khởi” (Đạt Lai Lạt Ma. Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong suy lí. Bài 1).

hội thông hiểu như thế, chúng ta hân hoan với các phúc đức hiển lộ của hữu tình, các quả hải vạn đức hiển lộ trong cuộc sống ở đây bây giờ. Và chúng ta theo học Nhập Trung Đạo: Con đường Bồ tát tích hợp Đại BiTrí Tuệ.

Đức Phật giảng duyên khởi, tính không, trung đạo, và vạn hữu đều hân hoan.   

“ Và từ Chính định vương kinh / Nguyệt đăng tam muội kinh (Samadhirajasutra):

“Khi Đức Phật, thánh giả, quốc vương của chân lí, vị khai hiển của tất cả các chân lí xuất hiện, điệp khúc thì được vang lên từ cây cỏ, cây con và cây lớn và cây nhỏ, từ sỏi đá và các núi non: tất cả các tập hợp của đời sống đều là tính không / tính chân không diệu hữu”

“Bất kì xa xôi cách nào chỉ thuần các đơn vị chữ viết, lời nói vươn tới cõi thế tục, tất cả đều là tính không/ tính chân không diệu hữu, chẳng có cái chi là thật [ thật = chẳng biến dịch]; và  vang xa là tiếng gọi của đức Phật, vị hướng dẫn và vị thầy của tất cả loài người”.

(Nguyệt Xứng. Minh cú luận. Prasannapada, p.179)

“Khi chư Phật nhập niết bàn, đại lạc tối hậu, đó là sự an tĩnh của các cấu trúc của tưởng, chư Phật tương tợ như các thiên nga huy hoàng trong bầu trời, tự thong dong trong hư không hoặc trong chân không diệu hữu của hư không trên đôi cánh của tích tập phúc đứctrí tuệ; kết quả nên biết đó là bởi vì chư Phật không tri nhận các đối tượng là các tướng trạng, không có ‘Chân Lý’ gắt gao bất kỳ là cái gì quan liên đến sự nô lệ hoặc sự tịnh hoá đã được giảng dạy giữa hoặc cho cõi trời hoặc cõi người dù là bất kỳ cái gì”. 

*
When the illustrious Buddhas are in nirvana, the ultimate beatitude, which is the coming to rest of named things as such, they are like kingly swans in the sky, self-soaring in space or in the nothingness of space on the twin wings of accumulated merit and insight; then it should be known, that, because they do not perceive objects as signs, no rigid ‘Truth’ whatsoever either concerning bondage or purification has been taught either among or for any gods or men whatsoever.

Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. Prasannapada. of Candrakirti . Translated by Mervyn Sprung -- p. 262. (Nguyệt Xứng. Minh Cú luận

*

 

Như thế bạn nô lệ hay bạn tịnh hoá, bạn tỉnh biết hay không tỉnh biết, đó là tự do đầu tiên và cuối cùng của bạn.

Kính

Đặng Hữu Phúc

Sydney, 14.3.2016

 

------------------

Chú thích

Bản dịch Việt dịch từ bản dịch Anh. Introduction to the Middle Way . Chandrakirti’s Madhyamakavatara  with Commentary by Jamgon Mipham. Translated by the Padmakara Translation Group. Shambhala  2004.

Trong khi dịch, cũng có tham khảo:

1. Geshe Kelsang Gyatso . Ocean of Nectar. Wisdom and compassion in Mahayana Buddhism.  Tharpa Publications 1995 (Đại Hải Cam Lộ. Trí tuệđại bi trong Phật giáo Đại thừa). Đây là bài giảng bộ luận Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng , 592 trang.

2. Introduction to the Middle Way: Chandrakirti's Madhyamakavatara with commentary by Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche, edited by Alex Trisoglio, Khyentse Foundation, 2003 . Bài giảng này có bản pdf  trên mạng

3. Nhập Trung Quán Luận. Bản dịch Tạng - Việt. Tỳ kheo Hạnh Tấn và Sư cô Nhật Hạnh . Bản pdf

*

Về bản dịch Việt, người dịch rất mong các độc giả từ bi chỉ giáo -- thư về:

phucdang143@hotmail.com
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1535)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1667)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1637)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1041)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1520)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1502)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1948)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1539)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1364)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1374)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1562)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1152)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1274)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1700)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3014)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1828)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1368)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1415)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1327)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1695)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1896)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2396)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1787)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2135)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2241)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2304)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1858)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1981)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2037)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1961)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2597)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1950)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1895)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1949)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1899)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2173)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2320)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1991)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2102)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1889)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1916)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2424)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2329)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4008)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2498)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3206)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2485)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2052)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1804)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3317)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2351)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3035)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant