Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta

16 Tháng Năm 201604:43(Xem: 7776)
Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta

BỐN CƠ HỘI HIẾM CÓ
Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta,
Kệ 182 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú

Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  
Source-Nguồn: www.buddhanet.net

(Four Rare Opportunities - The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta


BÀI KỆ 182:

182. Kiccho manussapaṭilābho
kicchaṃ maccāna’jīvitaṃ
kicchaṃ saddhammasavanaṃ
kiccho Buddhānaṃ uppādo. (14:4)

182. Điều khó đạt được, là sinh ra làm người
Điều khó khăn của kiếp người, là sinh tử,
Điều khó làm, là gặp được Phật Pháp,
Điều hiếm thấy, là sự xuất hiện của một vị Phật.

Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.

Ngày xửa ngày xưa, có một vị Vua Rồng tên là Erakapatta. Một trong những kiếp trước của ông là một nhà sư đã đi tu trong một thời gian rất lâu, vào thời Đức Phật Kassapa. Trong kiếp nhà sư nầy, ông đã lo lắng bởi vì ông vi phạm một giới nhỏ, nên ông đã tái sinh là một vị Vua Rồng. Trong lúc là một Vua Rồng, ông chờ đợi sự xuất hiện của một vị Phật. Erakapatta có một cô con gái rất xinh đẹp, và ông xử dụng cô như là một phương tiện để tìm kiếm Đức Phật. Ông đã cho mọi người biết rằng, bất cứ ai có thể trả lời đúng câu hỏi của công chúa, thì người đó có thể lấy công chúa làm vợ. Mỗi tháng hai lần, cô con gái của Erakapatta ra nhảy múa, và hát lên những câu hỏi trước công chúng. Nhiều chàng trai theo đuổi cô, muốn lấy cô làm vợ, nên đến trả lời các câu hỏi của cô, tuy nhiên, chẳng có ai cho câu trả lời đúng.

Một ngày kia, dưới tầm nhìn của Đức Phật, ngài trông thấy một thanh niên trẻ tên là Uttara. Đức Phật cũng biết rằng thanh niên nầy sẽ đạt Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn), qua sự kết nối với các câu hỏi của con gái Vua Rồng Erakapatta. Vào lúc đó, thanh niên trẻ nầy đang trên đường đi đến gặp cô con gái của Erakapatta. Đức Phật liền dừng anh ta lại, và ngài dạy anh cách trả lời các câu hỏi. Trong khi Đức Phật dạy bảo anh, Uttara đã đạt được Quả Nhập Lưu. Khi anh đã đạt được Quả Nhập Lưu rồi, anh không còn mong muốn lấy cô công chúa con của Vua Rồng làm vợ nữa. Tuy nhiên, Uttara vẫn muốn đi đến trả lời các câu hỏi của cô công chúa, với mục đích là giúp ích cho những chúng sanh khác.

Bốn câu hỏi đầu tiên là:

(1) Người cai trị là ai? (2) Người sống hoàn-toàn không-có đạo-đức, có được gọi là một người cai trị không? (3) Người cai trị nào mà sống có đạo-đức? (4) Loại người nào bị gọi là người ngu xuẩn?

Bốn câu trả lời cho các câu hỏi trên là:

(1) Người cai trị là người kiểm soát được sáu giác quan. (2) Người sống hoàn-toàn không-có đạo đức thì không được gọi là người cai trị; người mà không-còn lòng tham muốn được gọi là người cai trị (3) Người cai trị nào mà không còn lòng tham muốn, chính là người sống có đạo đức (4) Người đi tìm kiếm các thú vui nhục dục là một người ngu xuẩn.

Sau khi cô công chúa con Vua Rồng Erakapatta nghe được các câu trả lời chính xác như trên, cô công chúa bắt đầu hát tiếp các câu hỏi diễn tả các ham-muốn nhục-dục như là các trận lũ-lụt (oghas), câu hỏi về kiếp sống mới (tái sinh), về các giáo lý sai lầm và về sự thiếu hiểu biết, và phương-cách để giải-quyết các vấn-đề nầy. Uttara liền trả lời các câu hỏi nầy, giống như lời Đức Phật đã giảng dạy. Khi Erakapatta nghe các câu trả lời, ông biết rằng có một vị Phật đã xuất hiện trên thế gian nầy. Vì vậy, ông nhờ Uttara dẫn ông đến gặp Đức Phật. Khi gặp Đức Phật, Erakapatta kể chuyện là trong thời Đức Phật Kassapa, ông là một nhà sư, và khi ông du hành trên thuyền, ông vô tình làm một ngọn cỏ bị cắt đứt, ông đã lo lắng về việc vi phạm một giới nhỏ nầy, rồi ông đã không xin sám hối theo giới luật quy định, vì thế mà cuối cùng ông đã tái sinh làm một Vua Rồng. Sau khi nghe ông kể chuyện xong, Đức Phật nói với ông rằng, thật là khó khăn để được sinh ra làm người, và thật là khó khăn để sinh ra trong thời có các vị Phật, và thật là khó khăn để nghe được Phật Pháp

BÀI KỆ 182, CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG PALI:

manussa paṭilābho kiccho maccāna jīvitaṃ kicchaṃ saddhamma savanaṃ kicchaṃ Buddhānaṃ uppādo kiccho

manussa paṭilābho: được làm người; kiccho: (là điều) khó khăn; maccāna: (vòng sinh tử) của con người; jīvitaṃ: cuộc sống; kicchaṃ: (là điều) khó khăn; saddhamma savanaṃ: được nghe Phật Pháp; kicchaṃ: (là điều) khó khăn; Buddhānaṃ uppādo: sự ra đời của một vị Phật; kiccho: là điều khó khăn và là điều hiếm có

Trong vòng sinh-tử, điều rất hiếm-có là được sinh ra làm người. Điều hiếm-có và khó-khăn là được cơ hội nghe giảng Phật Pháp. Điều thật sự hiếm-có là sự ra đời của một vị Phật.

Bài kệ 182 của Kinh Pháp Cú nầy, được anh Tâm Minh chuyển dịch thành thơ như sau:

(182) Khó mà sinh được làm người, Rồi ra sống được trọn đời khó hơn, Được nghe chánh pháp tuyên dương. Cũng là điều khó trăm đường mà thôi, Duyên may gặp Phật ra đời. Là điều hy hữu, tuyệt vời biết bao.

BÌNH LUẬN

maccāna jīvitaṃ: con người sống trong vòng sinh tử. Từ ngữ macca(con người) được dùng cho con người bởi vì ai sinh ra làm người thì cũng sẽ phải chết. Tất cả mọi hình thức của cuộc sống rồi sẽ phải chết. Tuy nhiên, từ ngữ macca có ý nghĩa quan trọng đặc biệt cho con người; bởi vì trong tất cả các loài động vật, con người là sinh vật duy nhất, mà có thể nhận-biết cái-chết là điều không thể nào tránh được. 

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

SHORT TITLE:

The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Four Rare Opportunities - The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 182:

182. Kiccho manussapaṭilābho
kicchaṃ maccāna’jīvitaṃ
kicchaṃ saddhammasavanaṃ
kiccho Buddhānaṃ uppādo. (14:4)

182. Human birth is hard to gain,
hard for mortals is their life,
to come to Dhamma True is hard,
rare the Buddhas’ arising.

While residing near Bārānasī the Buddha spoke this verse, with reference to Erakapatta, a king of the nāgas.

Once there was a nāga king by the name of Erakapatta. In one of his past existences during the time of Kassapa Buddha he had been a monk for a long time. Through worry over a minor offence he had committed during that time, he was reborn as a nāga. As a nāga, he waited for the appearance of a Buddha. Erakapatta had a very beautiful daughter, and he made use of her as a means of finding the Buddha. He made it known that whoever could answer her questions could claim her for a wife. Twice every month, Erakapatta made her dance in the open and sing out her questions. Many suitors came to answer her questions hoping to claim her, but no one could give the correct answer.

One day, the Buddha saw a youth named Uttara in his vision. He also knew that the youth would attain sotāpatti fruition in connection with the questions put by the daughter of Erakapatta the nāga. By then the youth was already on his way to see Erakapatta’s daughter. The Buddha stopped him and taught him how to answer the questions. While he was being taught, Uttara attained sotāpatti fruition. Now that Uttara had attained sotāpatti fruition, he had no desire for the nāga princess. However, Uttara still went to answer the questions for the benefit of numerous other beings.

The first four questions were:

(1) Who is a ruler? (2) Is one who is overwhelmed by the mist of moral defilements to be called a ruler? (3) What ruler is free from moral defilements? (4) What sort of person is to be called a fool?

The answers to the above questions were:

(1) He who controls the six senses is a ruler. (2) One who is overwhelmed by the mist of moral defilements is not to be called a ruler; he who is free from craving is called a ruler. (3) The ruler who is free from craving is free from moral defilements. (4) A person who seeks for sensual pleasures is called a fool.

 Having had the correct answers to the above, the nāga princess sang out questions regarding the floods (oghas) of sensual desire, of renewed existence, of false doctrine and of ignorance, and how they could be overcome. Uttara answered these questions as taught by the Buddha. When Erakapatta heard these answers he knew that a Buddha had appeared in this world. So he asked Uttara to take him to the Buddha. On seeing the Buddha, Erakapatta related to the Buddha how he had been a monk during the time of Kassapa Buddha, how he had accidentally caused a grass blade to be broken off while travelling in a boat, and how he had worried over that little offence for having failed to do the act of exoneration as prescribed, and finally how he was reborn as a nāga. After hearing him, the Buddha told him how difficult it was to be born in the human world, and to be born during the appearance of the Buddhas or during the time of their teaching.

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 182)

manussa paṭilābho kiccho maccāna jīvitaṃ kicchaṃ saddhamma savanaṃ kicchaṃ Buddhānaṃ uppādo kiccho

manussa paṭilābho: winning human existence; kiccho: (is) difficult; maccāna: of mortals; jīvitaṃ: life; kicchaṃ: (is) difficult; saddhamma savanaṃ: hearing the Dhamma; kicchaṃ: (is) difficult; Buddhānaṃ uppādo: the birth of the Buddha; kiccho: is difficult and rare

It is rarely that one is born as a human being, in this cycle of rebirth. It is difficult and rare to get the opportunity to hear the good teaching. It is, indeed, rare for the birth of a Buddha to occur.

COMMENTARY

maccāna jīvitaṃ: life of a mortal. The word macca (mortal) is applied to a human being because he is subject to death. All forms of life are subject to death. But the term macca is especially significant to human beings; because, of all animals, the human beings are the only ones that can become aware of the inevitability of death.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8208)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8297)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9159)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 8046)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16258)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15780)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7994)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 8006)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8723)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7890)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7487)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9306)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8561)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8607)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11883)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7500)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8279)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11725)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7401)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8995)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8413)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 10027)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9672)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9608)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10552)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10145)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8230)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20257)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8087)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8568)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9422)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9326)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7739)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8362)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8205)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 9027)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8776)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8628)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10184)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8133)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8850)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 9009)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8455)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7610)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7519)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9522)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9885)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8557)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12296)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9628)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7564)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8867)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16890)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 9028)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13260)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19797)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8663)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9235)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8308)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10204)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant