Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng

24 Tháng Sáu 201708:56(Xem: 8348)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng

Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng

Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn

 

Thích Như Điển

 

 dai-bi-chu-giang-giaiSuốt ngày 22 tháng 6 năm 2017 vừa qua, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, nhân mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, tôi để tâm đọc quyển sách nầy trong vô cùng trân trọng, sau khi nhận được sách gửi tặng từ Thượng Tọa Thích Minh Định. Xin vô cùng niệm ân Thầy.

Đọc sách, Kinh, báo chí v.v… vốn là niềm vui của tôi tự thuở nào chẳng biết, nhưng nếu cảm thấy rảnh rỗi là tôi cầm sách hay Kinh để đọc. Riết rồi trở thành một thóiquen rất đặc biệt. Do vậy mỗi ngày đọc Đại Tạng Kinh bằng tiếng Việt cỡ 200 trang cũng là chuyện bình thường đối với tôi. Tôi nghĩ rằng người khác đã có công viết hay dịch thuật và in thành sách hay báo chí, vốn là công sức và trí tuệ của nhiều người gom lại, tại sao chúng ta không đọc để học được những điều hay nơi Kinh, sách hay báo chí viết. Cho nên hầu như không có sách, hay báo chí nào gửi đến chùa Viên Giác mà tôi không lướt mắt qua, hoặc đọc hết cả cuốn sách dày hàng trăm, hằng nghìn trang như vậy, nếu là sách hay. Mỗi người trong chúng ta có một thói quen cố hữu, nhưng nếu ai đó chọn đúng cách sống thì sự an lạc sẽ đến với mình, không phải chỉ trong đời này mà còn kế tiếp theo ở nhiều đời sau nữa.

Cầm quyển sách trên tay với 180 trang khổ A5 như thế, tôi cảm thấy thoải mái khi bắt đầu đọc. Chú Đại Bi nầy do cố Hòa Thượng Tuyên HóaVạn Phật Thánh Thành, Hoa Kỳ giảng bằng tiếng Phổ Thông cách đây hơn 20 năm về trước, sau đó Thượng Tọa Thích Minh Định, Đệ tử của Cố Hòa Thượng Thích Trung Quán đã dày công phiên dịch ra Việt ngữ và đã xuất bản lần đầu cũng cách đây 20 năm. Lần tái bản nầy của năm 2017 do nhà xuất bản Hồng Đức ở Việt Nam in với hình thức ấn tống 1.000 cuốn và tôi đã nhận được một trong những cuốn ấy cùng với quyển “Ý Nghĩa Đời Người”  của cùng tác giả và dịch giả. Đầu tiên tôi đọc mục lục của sách được chia ra như sau: Từ trang đầu cho đến trang 108 là những bài pháp của Cố Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng về Thần Chú Đại Bi; từ trang 109 đến trang 163 Ngài giảng giải về 10 cảnh giới của 4 bậc Thánh và 6 cõi phàm; từ trang 164 đến trang 177 Ngài kể lại chuyện“Như Ý Ma Nữ”.

Trước đây vào năm 2001 tôi có xuất bản quyển “Kinh Đại Bi” bằng tiếng Việt và tiếng Đức. Bản nầy dịch từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Nội dung Kinh có mô tả về việc những người đi biển gặp nạn lớn, cá to nuốt luôn cả chiếc thuyền vào bụng cá, trong số người đi biển chỉ có một người niệm được danh hiệu“Nam Mô Phật”mà cá kia động lòng, nên đã há miệng ra cho những người mắc nạn ấy trở về lại đất liền. Đó chỉ là một trong nhiều chuyện trong Kinh Đại Bi do Phật nói và đã được kết tập vào Đại Tạng. Riêng Thần Chú Đại Bi thì chúng ta tụng hằng ngày, hằng thời kinh, hằng năm, hằng tháng, hằng pháp hội v.v… nhưng hầu như không nghe nói ai giảng cũng như nói về ý nghĩa của Chú nầy cả. Nếu có, quý Thầy  cũng chỉ nói tổng quát rằng “Đây là Thần Chú của Đức Quan Thế Âm, vì lòng bi mẫn cứu chúng sanh mà phát ra Đại Nguyện với nhiều hóa thân để cứu độ”, còn giảng từng câu từng chữ thì không và chưa thấy ai đề cập đến. Nay có quyển sách nầy trên tay, nên tôi rất hoan hỷ để đọc từ trang đầu đến trang cuối chỉ trong một ngày, độ hơn 4 tiếng đồng hồ cho 180 trang ấy.

Đầu tiên chúng ta thử tìm hiểu sơ lược về Tiểu sử của Ngài, để chúng ta có được một cái nhìn khái quát về Ngài trong những năm tháng hành đạo tại Trung Hoa, Hồng Kông và Hoa Kỳ trong suốt một cuộc hành trình dài 77 năm ấy. Ngài sinh ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918) tại Tỉnh Kiết Lâm ở phía Đông Bắc Trung Hoa và ngày nay thuộc Mãn Châu (xem thêm chi tiết Tiểu Sử của Ngài nơi Wikipedia tiếng Việt). Năm 19 tuổi sau khi lễ tang của Mẹ xong, Ngài đến chùa Tam Duyên xuất gia và nhận Ngài Hòa Thượng Thường Trí làm Thầy. Sau đó Ngài về phần mộ của Mẹ mình để cư tang trong ba năm. Ngài ngồi Thiền và niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, gặp nhiều điềm lành như ánh sáng hay gặp Ngài Lục Tổ Huệ Năng trong khi Thiền định. Đến năm 1946 Ngài đến chùa Nam Hoa và đảnh lễ Hòa Thượng Hư Vân để xin thọ Cụ Túc giới. Ngài Hư Vân phú cho Ngài Pháp HiệuTuyên Hóa. Đến năm 1949 Ngài sang Hồng Kông và tu khổ hạnh quên mình tại đó. Năm 1961 Ngài sang Úc Châu hoằng pháp, đến năm 1962 Ngài sang San Francisco, Hoa Kỳ. Đến năm 1968 Ngài bắt đầu giảng Kinh Đại thừa, trong đó có Lăng Nghiêm và sau 96 ngày có 5 người Mỹ xuất gia với Ngài. Năm 1976 Ngài thành lập Vạn Phật Thánh Thành (cách thành phố San Jose chừng 2 tiếng đồng hồ lái xe). Đến ngày 7 tháng 6 năm 1995 Ngài viên tịch tại Los Angeles, Hoa Kỳ. Câu di ngôn của Ngài để lại cho đời là: “Khi tôi đến, tôi không có gì cả, khi tôi đi, tôi vẫn không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ trở về hư không”.

Ngày nay nếu Tăng Ni hay Phật Tử nào đó có lòng muốn đến Vạn Phật Thánh Thành để tu học trong nhiều năm tháng hay thăm viếng cũng rất có ý nghĩa, vì bậc chân tu nầy tuy nói rằng “Ngài không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian nầy”, nhưng Vạn Phật Thánh Thành vẫn còn đó, những tòa nhà (vốn là một bệnh viện) ngang dọc vẫn còn đây và đâu đó dấu chân của Ngài vẫn còn in bóng khắp mọi nơi. Tiếng giảng Kinh của Ngài vẫn còn trầm lắng nơi tâm tư của người học Phật, họ là những người Hoa, người Việt, người Mỹ v.v… Tại Vạn Phật Thánh Thành quý vị có thể tu theo nhiều pháp môn như ngồi Thiền, niệm Phật, lễ bái, Kim Cang thừa, trì luật, Duy thức v.v… nghĩa là tại Đại Học Pháp Giới cũng như những lớp giảng Kinh ở đó vẫn được tổ chức hằng ngày, hằng tháng, hằng năm. Nghe đâu Đại Học Pháp Giới tại Vạn Phật Thánh Thành cũng đang chiêu sinh, Tăng, Ni và Cư sĩ từ ngoại quốc có thể ghi tên tu học tại đây với visa dài hạn vào Mỹ. Đây là một cơ hội tốt cho những ai muốn tìm cầu tu học cũng như đảnh lễ xá lợi của Ngài, và đến đây để thấy tấm lòng của người xưa cao cả là dường nào. Phương Trượng tại đây trong hiện tại là một người Tăng sĩ từ Trung Hoa lục địa đến và được truyền thừa khi Ngài Tuyên Hóa còn sanh tiền. Mọi lễ nghi, pháp quy tại Vạn Phật Thánh Thành đều được duy trì như thời Ngài Tuyên Hóa còn hiện thế. Thế mới biết: Ngài không để lại gì mà thật sự ra Ngài đã để lại rất nhiều cho hậu thế. Đây là những Pháp Bảo vô giáchúng ta khó có thể tìm được trên thế gian nầy.

Đọc những lời giảng giải của Ngài về Chú Đại Bi tôi cứ ngỡ là Ngài rành chữ Phạn, nhưng không, Ngài trả lời cho những người học Phật là Ngài tự biết như thế và giảng ra thôi. Nếu ai đó có hỏi Ngài là Ngài có biết tiếng Phạn không? Ngài trả lời rằng: Không. Nhưng tại sao Ngài  biết giảng những Thần Chú? Thì Ngài hỏi lại rằng: Nó cũng giống như bạn hỏi tôi tại sao tôi xuất gia và tôi hỏi lại bạn là tại sao bạn không xuất gia? Khi nào bạn trả lời được câu hỏi ấy, tức bạn đã hiểu lý do vì sao rồi. Ngài giảng rất rõ về câu Chú đầu tiên trong Thần Chú Đại Bi “Nam Mô hắc ra đát na đá ra dạ da”, rồi từng chữ, từng câu xuyên suốt hết bài chú, cuối cùng là “Án Tất Điện Đô Mạn Đà Ra Bạt Đà Dạ Ta Bà Ha” và đây cũng là Thần Chú trong khi cạo tóc như: Thế trừ tu phác, đương nguyện chúng sanh, viễn ly phiền não, cứu cánh tịch diệt. Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà dạ ta bà ha. Ngài giải thích 14 lần chữ Ta Bà Ha trong bài Chú Đại Bi và mỗi câu là mỗi nghĩa khác nhau của 42 Thủ Nhãn. Chữ Ta Bà Ha ấy có nghĩa chung trong 6 nghĩa là: Thành tựu, Cát tường, Viên tịch, Tiêu tai, Tăng íchVô trụ hay Vô sở trụ. Đến đoạn “Hê Rị Ma Ha Bàn Đa Sa Mế” Ngài giảng về Hòa Thượng Chí Công và vua Lương Võ Đế (thế kỷ thứ 6) cũng như những câu chuyện luân hồi của chúng sanh rất có ý nghĩa. Đặc biệtcâu chuyện về hai con chim bồ câu. Ngài Tuyên Hóa giảng rằng: Ngài Chí Công mỗi ngày hay ăn hai con chim bồ câu và người đầu bếp nghĩ rằng chắc là thịt của bồ câu ngon lắm, nên anh ta một hôm trước khi dọn cơm cho Ngài, đã ăn trước một phần để xem thử ngon dở như thế nào. Khi mang cơm lên, Ngài Chí Công bảo: Hôm nay ai ăn lén bồ câu của ta? Người đầu bếp chối không ăn và Ngài Chí Công chứng minh cho anh ta thấy rằng đâu là sự thật. Sau khi ăn xong hai con chim bồ câu, Ngài bèn hả miệng và phun ra hai con chim bồ câu, có một con bay được và con kia chẳng có cánh nên không bay được. Đoạn Ngài nói tiếp: Ngươi xem đi, nếu ngươi chẳng ăn lén cánh bồ câu, thì sao con bồ câu nầy bay không được? Vậy cánh của nó ở đâu? Từ đó người đầu bếp mới biết Ngài Chí Công không phải là người bình thường mà là Bồ Tát hóa thân. Cho nên ăn bồ câu nấu chín rồi, mà có thể trở thành bồ câu sống. Nếu chẳng phải cảnh giới của Bồ Tát thì làm sao có cảnh trạng nầy?

Viết đến đây tôi liên tưởng đến Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, Anh ruột của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Hậu húy Thiều (vợ của Vua Trần Thánh Tông, Mẹ của vua Trần Nhân Tông) cũng tương tự như vậy. Một hôm Tuệ Trung Thượng Sĩ về Phủ Thiên Trường (nơi dành cho những Thái Thượng Hoàng về đây an nghỉ, còn Thăng Long là Đế Đô của các vua đang tại vị). Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu dọn tiệc để đãi anh mình tại Phủ Thiên Trường. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Tuệ Trung Thượng Sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay mặn. Hoàng Thái Hậu hỏi: “Anh tu Thiềnăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?”. Ông cười đáp:“Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành anh. Em không nghe các bậc cổ đức nói: Văn ThùVăn Thù, giải thoátgiải thoát đó sao?”. Trong bữa tiệc nầy có cả vua Trần Nhân Tông, vua rất thắc mắc về việc nầy vì chưa hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng chưa tiện hỏi. (đọc thêm phóng tác lịch sử tiểu thuyết cuối Triều Lý, đầu nhà Trần về “Mối tơ vương của Huyền Trân công chúa” do chúng tôi biên soạn và sẽ xuất bản vào năm 2018). Đọc đoạn văn nầy, chúng ta thấy hành tung của những vị Bồ Tát đi vào đời để độ sanh thật là bất khả tư nghì, chúng ta không thể dùng cái trí hiểu biết bình thường mà hiểu được những hành động của họ, đừng nói gì đến chuyện phán đoán đúng sai. Tiện đây tôi xin ghi thêm một câu chuyện bên lề về những hành tung của Ngài Tuyên Hóa để tìm hiểu thêm (vì trong Tiểu Sử của Ngài không thấy ghi, nhưng đã được truyền miệng qua nhiều người) như sau:

Khoảng năm 1975, miền Bắc California bị hạn hán kéo dài lâu ngày, nước không có để cho gia súc cũng như loài người dùng, mà trên đồi cao nầy có cả một bịnh viện gồm hơn 100 phòng, có nhiều người ở tại đó. Đây là vấn đề nan giải, chính phủ Mỹ cũng bó tay, không làm sao tìm đâu ra nước được, cho nên mới treo bảng bán cơ sở nầy. Có một người Hoa, vốn biết Hòa Thượng Tuyên Hóa từ trước, nên đến cung thỉnh Ngài đến xem và nếu Ngài thấy chỗ nào có nước thì điềm chỉ cho, để bà ta mua cúng dường Ngài Tuyên Hóa. Khi Ngài chỉ vào một khoảnh đất trống trong khu nhà đất lớn cả hằng trăm mẫu và nói: “Nơi nầy có nước”. Sau đó cho người khoan thì thấy quả thật là có nước, vị thí chủ đã mua cơ sở nầy của chính phủ Mỹ với giá rẻ để cúng dường cho Ngài, và Vạn Phật Thánh Thành từ năm 1975 đến nay, hơn 40 năm sinh hoạt cho cả hằng trăm, hằng ngàn người vẫn không hề thiếu nước. Tôi viết điều nầy qua việc nghe thấy cũng như đã đến tại chỗ, nơi Vạn Phật Thánh Thành trong hai lần, đi cùng với quý Phật tử tại san Jose trong những năm về trước. Nếu có gì sai sót thì xin quý vị bổ túc cho.

Câu “Y Hê Di Hê” Ngài cho là câu Chú nầy thuộc về Ma Hê Thủ La Thiên Vương. Đây là loài ma vương của ngoại đạo, nếu ai đó niệm đến câu “Y Hê Di Hê” nầy thì Ma Hê Thủ La Thiên Vương sẽ đến, lúc nầy, trong tâm của bạn nghĩ việc gì, kêu y đi làm, thì y sẽ lập tức y giáo phụng hành. Trang 72 của quyển sách nầy cũng cho biết là 42  Thủ Nhãn nầy đều là sở tu của Bồ Tát, chứ chẳng phải là tên của 42 vị Bồ Tát. Ngài cũng cho biết là tại Đài Loan có một vị Pháp Sư giảng Chú Đại Bi, mỗi một Thủ Nhãn vị nầy đều giảng thành một vị Bồ Tát. Ví dụ như “Chưởng Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn” thì vị nầy giảng là: “Chưởng Thượng Hóa Phật Bồ Tát Thủ Nhãn”. Giảng như vậy là sai, sai một ly đi một dặm là vậy. Hình Thủ Nhãn tức là hình bàn tay có cầm những pháp bảo, mà cũng kỳ lạ là từ câu thứ 24. “Tát Bà Tát Bà” mới bắt đầu có Thủ Nhãn nầy và chấm dứt ở câu 75. “Ta Bà Ha” gồm có 42 hình ảnh của bàn tay với nhiều ấn quyết, mà không chấm dứt ở câu 84. “Ta Bà Ha” là câu cuối cùng, nhưng dẫu sao đi nữa thì đây cũng là những lời giải thích của vị có tu, có hành trì Thần Chú Linh Cảm nầy của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vì lòng Đại Bi mà đã thể hiện ra như thế để hóa độ chúng sanh, còn tin hay không thì xin tùy theo từng người đã cảm ứng với Thần Chú nầy như thế nào, chứ bảo rằng đúng hay sai thì lại là vấn đề khác nữa.

Riêng tôi cũng bị hỏi nhiều lần về Thần Chú Đại Bi nầy là tại sao các Thầy không giảng ra tiếng Việt? Tôi chỉ trả lời rằng: Đã là Thần Chú, là mật ngôn của chư Phật thì chỉ có Phật với Phật mới hiểu, chứ còn chúng sanh như chúng ta thì làm sao hiểu nổi. Bồ Tát nghe còn chưa hiểu thì các vị Thanh Văn, Duyên Giác, A La Hán cũng chỉ đứng đó mà nhìn, chứ chưa thể nào hiểu hết được ý của Phật; nhưng ta biết chắc một điều là: Thần Chú nầy là vì lòng Đại Bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Ngài đã nói ra diệu dược tâm linh để cứu cho những chúng sinh nào cần đến loại thuốc nầy. Tôi ví dụ như chúng ta mở đài để nghe tin tức, nhưng khi dò chưa đúng đài thì chúng ta chỉ nghe những tiếng rè rè mà thôi, khi nào chúng ta dò đúng đài rồi thì chúng ta sẽ nghe rõ âm thanh của người trong máy nói. Vậy thì đài của chúng ta và đài của Phật, Bồ Tát chưa đúng tần số của nhau, nên chúng ta chưa rõ Quý Ngài nói gì, chứ không phải là không hiểu. Một ngày nào đó chúng ta sẽ hiểu các Ngài, khi chúng ta đã ở được vào chỗ Vô Trụ.

Tôi hay hành trì Kinh Lăng Nghiêm miên mật vào mỗi buổi sáng từ khi xuất gia (1964) đến nay (2017) cũng đã 53 năm rồi. Cứ mỗi lần nhắm mắt lại khi vào tựa của Kinh là cảm thấy mọi vật đều bất khả tư nghì. Tuy chẳng hiểu lời Thần Chú nói gì, nhưng đó là tất cả Đại Định của chư Phật và chư vị Bồ Tát. Cho nên khi giảng Kinh Lăng Nghiêm, Ngài Tuyên Hóa cũng đã có lần bảo: “Người nào hành trì Kinh Lăng Nghiêm mà bị xuống địa ngục, thì Ngài sẽ vào địa ngục trước để chịu thay cho người nầy vậy”. Như thế đủ biết rằng Lăng Nghiêm Thần Chú diệu dụng biết là chừng nào rồi. Hãy trì tụng Đại Bi, Lăng Nghiêm và những Thần Chú khác, không còn phải phân tâm nghi ngại gì nữa cả.

Từ trang 109 đến trang 163 Ngài giảng về 10 Pháp Giới như: Cảnh giới của Phật, Bồ Tát, Duyên Giác,Thanh Văn, Trời, A Tu La, Người, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Những lời giảng nầy cũng giống như những vị Pháp Sư khác giảng tại các pháp hội đó đây. Chỉ riêng phần cuối từ trang 164 đến trang 177 Ngài tường thuật lại chuyện “Như Ý Ma Nữ” có những thể nghiệm trị bệnh từ bản thân của Ngài cho những chúng sanh ở cõi khác kể từ khi Ngài còn ở bên Trung Hoa lục địa trước năm 1949. Hãy xem và hãy tự suy nghĩ cũng như thẩm định lại giá trị của những mẫu chuyện của Ngài kể, để chúng ta hiểu biết về những cõi khác một phần nào thôi. Đây chính là vấn đề “trạch pháp” vậy.

Nếu có ai đó hỏi tôi rằng: Làm sao có thể viết nhiều được? Tôi sẽ trả lời rằng: Hãy đọc thật nhiều thì sẽ viết được nhiều và nếu có ai đó hỏi tôi rằng: Làm sao để có thể nhớ nhiều được? Tôi sẽ trả lời rằng: Hãy tu nhiều và hành trì nhiều thì sẽ nhớ nhiều và nhớ được lâu. Nhưng tu và hành bao nhiêu làđủ, thì tùy theo nhân duyênnghiệp lực của mỗi chúng ta đã gieo trồng trong nhiều đời nhiều kiếp, chứ không phải trong một kiếp mà có thể giải đáp được những câu hỏi nầy. Riêng tôi rất là hạnh phúc, bởi vì chỉ trong một đời nầy gần 70 năm trong cuộc thế mà tôi đã kinh qua và đây là một phước báu vô ngần, ngàn năm mới chỉ có một. Đó là:

-       Đại Tạng Kinh Nam Truyền do cố Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch thẳng từ tiếng Pali sang tiếng Việt gồm có các bộ: Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ KinhTăng Chi Bộ Kinh. Phần Tiểu Bộ Kinh còn lại do Giáo Sư Nguyên Tâm Trần Phương Lan và một số quý vị khác dịch thẳng từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Tất cả gồm 13 quyển và tổng cộng độ gần 10.000 trang. Những Thiện Hữu Tri Thức tại Việt Nam đã đọc hết 3 Tạng nầy vào băng và tôi đã nghe xong liên tiếp trong 30 ngày như thế.

-       Đại Tạng Kinh Bắc Truyền hay đúng hơn là Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương phiên dịch ra Việt ngữ và lấy tên là: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh. Tổng cộng đã xuất bản được 187 tập. Từ tập 188 đến tập 203 đang trên tiến trình xuất bản tại Đài Loan, nhưng trên các trang nhà ở ngoại quốc đã có đủ 203 tập. Tổng cộng độ chừng 250.000 trang tất cả. Nếu một người phát tâm đọc trọn bộ nầy phải dùng thời gian ít nhất là 15 đến 20 năm và mỗi ngày phải đọc ít nhất từ 150 đến 200 trang như thế. Phần tôi đã đọc xong bộ Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và đang đọc bộ Bản Duyên. Tôi cũng đã phát tâm đọc trọn bộ Đại Tạng nầy trong những ngày còn lại của cuộc đời.

-       Bộ Phim về cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni do UNESCO tài trợ và các đạo diễn người Tích Lan, Ấn Độ cũng như các tài tử Ấn Độ đóng phim, dàn dựng lịch sử về cuộc đời của Đức Phật qua 54 tập và tập thứ 55 giới thiệu tổng quát những tập trước, đã làm cho hàng triệu triệu tín đồ Phật Giáo trên thế giới cũng như những người có tín ngưỡng khác phải khâm phục tận đáy lòng mình, khi xem những sự kiện của con người lịch sử ấy. Do vậy ngày nay nhân loại đã vinh danh Ngài là con người của lòng Từ Bi và Trí Tuệ. Tôi cũng đã xem hết 55 tập nầy đến 2 lần và mỗi lần xem như vậy khiến cho tôi càng thêm cung kính Đức Phật nhiều hơn nữa.

 

Chỉ 3 việc như trên cũng đủ làm cho tôi hoan hỷ vô cùng, dầu sống hay chết, dầu ở cõi nầy hay cõi khác, dầu cho bây giờ hay trong mai hậu, tôi đã đi qua trên con đường thiên lý ấyvới ngàn dặm gió sương, nhưng không một cám dỗ nào có thể làm cho mình thối chí xuất trần, làm người xuất gia học đạohành đạo như bài kinh“Nhứt dạ hiền giả” mà Hòa Thượng Thích Minh Châu đã dịch ra Việt ngữ như sau:

Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng

Quá khứ đã đoạn tận

Tương lai thì chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ giác chính là đây

Không động, không rung chuyển

Biết vậy nên tu tập

Hôm nay nhiệt tâm làm

Ai biết chết ngày mai

Không ai điều đình được

Với đại quân thần chết

Trú như vậy nhiệt tâm

Đêm ngày không mệt mỏi

Xứng gọi nhứt dạ hiền

Bậc yên tịnh trầm lặng.

Đọc xong quyển “Chú Đại Bi giảng giải” của Hòa Thượng Tuyên Hóa do Thượng Tọa Thích Minh Định, Trụ Trì chùa Kim Quang ở Pháp phiên dịch ra Việt ngữ, tôi vô vàn niệm ân Thầy, vì ngày nay vẫn còn có những bậc Trưởng Tử của Như Lai lo truyền thừa mối Đạo qua lời Kinh, Chú và sự giảng dạy của chư Tôn Đức khắp nơi trên thế gian nầy. Hẳn là điều quý báu vô song, không gì có thể sánh được. Câu văn của Ngài Tuyên Hóa giảng, in thành sách, nhưng khi dịch ra Việt văn, Thầy Minh Định đã uyển chuyển thay đổi cấu trúc của câu văn, nên đọc rất suông, thông suốt, dễ hiểu vô cùng. Mong rằng các Phật tử hay chư Tăng Ni nào hữu duyên thì cũng nên xem qua tác phẩm nầy, rất có giá trị.

Xin nguyện cầu cho Chánh Pháp luôn được cửu trụ nơi cõi Ta Bà nầy.

Viết xong trong một ngày đẹp trời của mùa An Cư Kiết Hạ năm 2017 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

 

Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Sáu 201716:31
Super Administrator
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính gửi Đạo Hữu Nguyễn Khắc Bảo,

Xin cảm ơn Đạo Hữu đã đọc bài tôi viết về"đọc Thần Chú Đại Bi" của HT Tuyên Hóa giảng và có ý muốn liên lạc với tôi qua Facebook; nhưng tôi không dùng Facebook. Do vậy, xin ĐH liên lạc qua E- Mail nầy vậy. chuaviengiac2012@gmail.com.
Kính chúc ĐH được vạn an.
Thích Như Điển
25 Tháng Sáu 201702:24
Khách
Cảm ơn bài viết của Thầy, rất hay và bổ ít cho những hành giả tại gia như chúng còn. Xin chân thành bày tỏ lòng thành Kính lên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, HT Tuyên Hóa và người truyền tải. Hy Vọng được liên hệ với Thầy qua FaceBook có địa chỉ nkbao80@gmail.com
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3501)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7358)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4527)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4582)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7361)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2975)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12230)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4006)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3815)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4234)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3703)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5079)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6700)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4016)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4139)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5351)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3794)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4547)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3564)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3940)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4401)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5398)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3850)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3946)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3881)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4833)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4535)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4274)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3848)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4650)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4219)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6122)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4617)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4958)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4200)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4840)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5675)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3662)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4058)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4599)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5295)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3153)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4770)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4566)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4306)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4755)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4505)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4611)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7237)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5221)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5012)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4611)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5629)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5284)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4168)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6026)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4724)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4888)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5497)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5632)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant