Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đặt Gánh Nặng Xuống

10 Tháng Mười Một 201706:45(Xem: 6137)
Đặt Gánh Nặng Xuống
ĐẶT GÁNH NẶNG XUỐNG

Thích Nguyên Hùng


Đặt Gánh Nặng Xuống
Lửa lòng mong cạn chốn am không… 


Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh, trói buộc vào lao ngục không giải thoát được như người nam thấy sắc của người nữ, hay người nữ thấy sắc của người nam”.1 

Kinh Pháp cú Bắc truyền, kệ 447 cũng nói: 

Cho bằng lửa dâm tà 
Con đường nào nhanh qua 
Cho bằng cơn phẫn nộ 
Lưới nào đan dày kín 
Cho bằng lưới ngu si 
Sông nào cuồn cuộn đi 
Cho bằng sông ái dục.
2 


Câu chuyện sau đây cho thấy để dập tắt được lửa lòng nếu khôngpháp hành đúng cách sẽ không dễ gì đạt được. Chuyện kể rằng, hồi đó, Tỳ-kheo Vaṇgīsa cùng với Tôn giả A-nan vào thành Rājagṛha để khất thực. Khi hai người đang đi trong một ngõ hẻm, Tỳ-kheo Vaṇgīsa trông thấy một thiếu nữ hết sức xinh đẹp, nhan sắc thù thắng, hiếm có ở đời, lập tức tâm Tỳ-kheo Vaṇgīsa bấn loạn, không giữ được bình tĩnh, lửa dục bừng bừng bốc cháy. Ý thức được sự nguy hiểm của dục vọng đang nhiệt não thân tâm, Vaṇgīsa liền cầu xin Tôn giả A-nan trợ giúp. Tôn giả A-nan liền đến bên cạnh lấy tay xoa đầu Tỳ-kheo Vaṇgīsa và khuyên thầy nên niệm Phật

Niệm Phật, không tham dục 
Nan-đà vượt dục kia 
Thấy trời, hiện địa ngục 
Ngăn ý, lìa năm đường. 

Tôn giả A-nan như vậy là vừa khuyên thầy Vaṇgīsa thực tập pháp môn niệm Phật, vừa nhắc lại sự kiện Đức Phật độ thầy Nan-đà3 - một trong những người có nhiều tâm luyến ái với nữ sắc, bằng cách dẫn lên cõi trời rồi dẫn xuống địa ngục cho thấy nhân quả của việc từ bỏ hay tham đắm nhục dục. Tuy nhiên, thầy Vaṇgīsa vẫn không trừ được lửa dục đang bừng cháy trong tâm. Ngay lúc đó, từ xa, người thiếu nữ trông thấy thầy Vaṇgīsa thì mỉm cười. Những tưởng nụ cười của người thiếu nữ như thêm dầu vào lửa, có thể thiêu đốt giới thân huệ mạng một đời người xuất gia, khiến thầy Vaṇgīsa mất ăn mất ngủ, tinh thần thêm bấn loạn; nhưng không, có thể nhờ phước từng làm thị giả, thầy Vaṇgīsa bỗng khởi lên niệm tưởng: “Cô này, với hình thể được dựng đứng bởi xương, được quấn chặt bởi da, cũng như cái bình vẽ, bên trong đựng đồ bất tịnh, lừa dối người đời, khiến sinh loạn tưởng”. 

Niệm tưởng này vừa khởi lên, thầy Vaṇgīsa liền có chỗ vào. Thầy tiếp tục tư duy thiền quán: “Dục này từ đâu sinh? Từ đất sinh chăng? Từ nước, lửa, gió sinh chăng? Nếu từ đất sinh, đất cứng chắc, không thể bị hư hoại. Nếu từ nước sinh, nước rất mềm, không thể nắm giữ. Nếu từ lửa sinh, lửa cũng không thể bị nắm bắt. Nếu từ gió sinh, gió không có hình, không thể nắm bắt.” Tôn giả lại nghĩ: “Tham dục này chỉ có từ tư tưởng sinh”. 

Thầy Vaṇgīsa tư duy về tưởng bất tịnh, liễu tri các pháp bất khả đắc, ngay tại chỗ, tâm hoát nhiên giải thoát khỏi hữu lậu, liền nói kệ rằng: 

Dục, ta biết gốc ngươi: 
Ngươi từ tư tưởng sinh. 
Nếu ta không tưởng ngươi, 
Ngươi sẽ không hiện hữu


Bấy giờ, Tôn giả A-nan cùng thầy Vaṇgīsa ra khỏi thành Rājagṛha, trở về vườn Trúc ở Kāraṇḍa, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên. Vaṇgīsa bạch Thế Tôn

- Nay con đã được lợi thiện, vì có chỗ giác ngộ

Thế Tôn hỏi: 

- Nay ngươi tự giác thế nào? 

Vaṇgīsa bạch Phật

- Sắc không bền vững, cũng không chắc chắn, không thể trông thấy, huyễn ngụy, không thật. Thọ không bền vững, cũng không lõi chắc, cũng như đám bọt trên mặt nước, huyễn ngụy, không thật. Tưởng không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy, không thật, cũng như quáng nắng. Hành không bền vững, cũng không lõi chắc, giống như thân cây chuối, không có thật. Thức không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy, không thật

Tôn giả lại bạch Phật thêm: 

- Năm thủ uẩn này không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy không thật

Bấy giờ Tôn giả Vaṇgīsa liền nói kệ rằng:

Sắc như chùm bọt nổi, 
Thọ như bong bóng nước
Tưởng giống như quáng nắng, 
Hành như thân cây chuối, 
Thức là pháp huyễn hóa
Đấng Tối thắng nói vậy. 
Tư duy điều này xong, 
Quán sát hết các hành, 
Thảy trống không, vắng lặng
Không có gì chân chánh, 
Đều là do thân này 
Đức Thiện thệ dạy vậy. 
Cần phải diệt ba pháp. 
Thấy sắc là bất tịnh
Thân này là như vậy, 
Huyễn ngụy không chân thật
Đó là pháp hư hại. 
Năm uẩn không bền chắc, 
Đã biết là không thật
Trở về đạo tối thượng


- Như vậy, Thế Tôn, đó là những gì mà con đã tỏ ngộ. 

Đức Phật liền ấn chứng:

- Nay ngươi nên biết, phàm là hành giả thì phải quán sát gốc năm uẩn này đều không chắc thật. Vì sao vậy? Khi Ta đang quán sát năm thủ uẩn này ở dưới bóng cây bồ-đề mà thành Vô thượng đẳng Chánh giác, cũng như những gì hôm nay ngươi quán.4 

Ngũ uẩn giai không

Thành Vô thượng đẳng Chánh giác là nhờ quán sát năm uẩn và thấy được tự tánh vô thường, vô ngã của nó. Do đó, đối với Phật giáo, quán sát chân chánh là quán sát ngũ uẩn giai không. Bởi khi quán sát như vậy “sẽ sanh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát”.

Người tu hành chỉ có được tâm giải thoát khi và chỉ khi nào hỷ tham, dục tham… được đoạn trừ. Mà dục tham chỉ được đoạn trừ khi tư duy chân chánh, quán sát và biết một cách như thật sắc là vô thường, vô ngã. Đối với sắc (thọ, tưởng, hành, thức) không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, tâm không giải thoát, thì không thể đoạn trừ khổ não, không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sinh, già, bệnh, chết. Do đó, Đức Phật khuyên các Tỳ-kheo phải luôn quán chiếu để thể ngộ 5 uẩn là vô thường: “Các ông hãy quán sát biết rõ những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều vô thường. Khi đã quán sát chân chính về vô thường rồi, thì sắc ái liền được trừ. Khi sắc ái đã được trừ rồi, thì tâm khéo giải thoát. Cũng vậy, quán sát thọ, tưởng, hành, thức hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều vô thường. Khi đã quán sát chân chính về vô thường rồi, thì thức ái liền được trừ. Khi thức ái đã được trừ rồi, thì Ta nói là tâm khéo giải thoát.”6 Quán sát như vậy được gọi là quán sát chân chánh. Hiểu biết như vậy được gọi là hiểu biết chân chánh, tức là liễu tri ngũ uẩn giai không! 
Mục đích của giáo dục 

Phật giáo Tôn giả La-hầu-la từng trăn trở: “Bạch Thế Tôn, biết như thế nào, thấy như thế nào để cho thân thức này của con cùng tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có các kết sử trói buộc là ngã, ngã sở kiến, ngã mạn?” 

Thấy biết như thế nào để không còn các kết sử trói buộc là ngã, ngã sở kiến, ngã mạn có thể nói là mục đích tối hậu của giáo dục Phật giáo. Ta, của ta và những gì ta biết là chất liệu cho ngã mạn mà từ đó dòng sông sinh tử luân hồi cứ chảy dài vô tận. Mọi khổ đau hệ lụy của chúng sinh đều bắt nguồn từ tư duy hữu ngã. Do đó, vô ngã hay ngũ uẩn giai không như là cứu cánh tất yếu và là lý tưởng tu học mà người xuất gia tu đạo cần nỗ lực đạt được. Phật dạy: “Này La-hầu-la, hãy quán sát, những gì thuộc về các sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc xấu, hoặc tốt; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều không phải của tôi, không phải là tôi, nó không phải là tự ngã của tôi; nên bằng tuệ bình đẳngquán sát như thật như vậy. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc xấu, hoặc tốt; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều không phải của tôi, không phải là tôi, nó không phải là tự ngã của tôi; nên bằng tuệ bình đẳng quán sát như thật như vậy.

“Như vậy, này La-hầu-la, Tỳ-kheo nên biết như vậy, thấy như vậy. Người nào biết như vậy, thấy như vậy, thì đối với thức thân này cùng tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có kết sử trói buộcngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn

“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo nếu như vậy đối với thức thân này cùng tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có kết sử trói buộcngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, thì Tỳ-kheo đó được gọi là người đoạn ái dục, chuyển đi các kết sử, chân chánh hiện quán đạt đến biên tế của khổ”.7 

Thế giới thành, hoại 

Đạt đến biên tế của khổ chắc chắn không thể bằng đôi chân, cho dù đôi chân ấy có thần lực nhanh chóng, giống như kiện sĩ, dùng mũi tên nhọn trong khoảnh khắc bắn xuyên qua chiếc bóng cây đa-la, có thể lên một núi Tu-di đến một núi Tu-di khác, cất bước từ biển Đông đến biển Tây và đi mãi đến trăm năm, ngàn năm hay lâu hơn nữa, cho tới khi mạng chung, rốt cuộc không thể vượt đến biên tế của thế giới, đến nơi không sinh, không già, không chết. Đó là kết luận dựa trên kinh nghiệm thực chứng khoa học không chỉ riêng Thiên tử Xích Mã mà còn là của nhiều giáo chủ các tôn giáo, các đạo gia, các nhà triết học… dù họ có tuyên bố hay không. Và Đức Phật cũng thừa nhận điều đó: “Không thể bằng đôi chân, vượt qua biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết”. 

Nhưng, Đức Phật khẳng định: 

“Nay Ta chỉ bằng cái thân một tầm để nói về thế giới, về sự tập khởi của thế giới, về sự diệt tận của thế giới, về con đường đưa đến sự diệt tận của thế giới. Này Thiên tử Xích Mã, thế giới là gì? Là năm thủ uẩn. Những gì là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Đó gọi là thế giới”. 

Rồi Đức Phật giải thích

“Thế nào là sự tập khởi sắc? Ái đương lai hữu, câu hữu với hỷ tham, ưa thích chỗ này chỗ kia. Đó gọi là sự tập khởi của thế giới

“Thế nào là sự diệt tận thế giới? Sự diệt tận của ái đương lai hữu, câu hữu với hỷ tham, ưa thích chỗ này chỗ kia; đoạn tận, xả ly không còn sót, vô dục, tịch diệt, tịch tĩnh. Đó gọi là sự diệt tận thế giới

“Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận thế giới? Tám Thánh đạo: chánh kiến, chánh trí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận thế giới

“Này Xích Mã, biết khổ thế giới, đoạn khổ thế giới; biết sự tập khởi thế giới, đoạn sự tập khởi thế giới; biết sự diệt tận thế giới, chứng sự diệt tận thế giới; biết con đường đưa đến sự diệt tận thế giới, tu con đường đưa đến sự diệt tận thế giới. Này Xích Mã, nếu Tỳ-kheo nào đối với khổ thế giới, hoặc biết hoặc đoạn; sự tập khởi thế giới, hoặc biết hoặc đoạn; sự diệt tận thế giới, hoặc biết hoặc chứng; con đường đưa đến sự diệt tận thế giới, hoặc biết hoặc tu; thì này Xích Mã, đó gọi là đạt đến biên tế thế giới, qua khỏi biển ái thế gian”.8 

Đặt gánh nặng xuống 

Suy cho cùng, chúng sinh không thể đi đến tận cùng biên tế của sự khổ, đạt đến biên tế thế giới, vượt qua biển ái thế gian cũng bởi mang quá nhiều gánh nặng nề: gánh nặng năm uẩn. Đức Phật giải thích

“Thế nào là gánh nặng? Là năm thọ ấm: Sắc thọ ấm, và thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm.” 

Gánh nặng càng trở nên nặng nề khi chúng sinh yêu thích, đắm trước: 

“Thế nào là thủ gánh nặng? Đó là ái, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia”. 

Cho nên, muốn giải thoát, muốn đi đến tận cùng biên tế của sự khổ thì hãy đặt gánh nặng xuống, tức là “ái này, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia, tất cả đều được đoạn trừ, diệt tận khổ, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ”.9 

Đức Phật kết luận

“Năm uẩn là gánh nặng
Kẻ gánh nặng là người; 
Mang lấy gánh nặng lên, 
Chính là khổ ở đời. 
Còn đặt gánh nặng xuống, 
Tức là lạc, không khổ, 
Đặt gánh nặng xuống xong, 
Không mang thêm gánh khác. 
Nếu nhổ khát ái lên, 
Tận cùng đến gốc rễ, 
Không còn đói và khát, 
Được giải thoát tịnh lạc!
10


Đặt gánh nặng xuống là nhổ khát ái lên đến tận cùng gốc rễ! Đó là việc cần làm, phải làm và duy nhất quan trọng đối với sự nghiệp của một người xuất gia học Phật. 

Thích Nguyên Hùng
____________________________

(1) Tăng nhất A-hàm, phẩm Con một. 
(2) Kinh Pháp cú Bắc truyền, Thích Đồng Ngộ - Thích Nguyên Hùng dịch, Nxb Tôn Giáo, tr.122. 
(3) Xem Tạp bảo tạng kinh, ĐTK/ĐCTT, T04, n°.0203. 
(4) Tăng nhất A-hàm, phẩm Tà tụ, kinh số 9. Xem thêm Tạp A-hàm, kinh số 1115. Pāli, S. 8. 4. Ānanda. 
(5) Tạp A-hàm, kinh số 1. 
(6) Tạp A-hàm, kinh số 22. 
(7) Tạp A-hàm, kinh số 465. S. 18. 21. Anusaya. 
(8) Tạp A-hàm, kinh số 1221, Xích Mã. S. 2. 3. 6. Rohita. 
(9) Tạp A-hàm, kinh số 73. 
10) Tương ưng bộ kinh 22. 22. Bhāra, HT.Thích Minh Châu dịch
Ý kiến bạn đọc
08 Tháng Ba 201815:42
Khách
Em chào tất cả mọi người
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1535)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1666)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1636)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1040)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1519)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1501)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1947)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1537)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1562)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1152)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1274)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1699)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3013)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1827)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1367)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1415)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1326)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1695)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1895)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2395)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2133)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2240)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2304)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1858)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1981)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2036)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1959)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2596)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1950)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1895)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1948)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1898)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2173)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2318)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1988)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2101)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1889)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1915)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2423)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2329)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4005)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2490)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2477)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2050)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1803)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3316)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2349)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3035)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant