Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thật….

24 Tháng Tư 201910:28(Xem: 2933)
Thật….

Thật …
Minh Mẫn

Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thật  ,nhiếp phục uế trược cám dỗ cũng thật, tài sản, vợ con, tình yêu, danh vọng, địa vị …đều thật hết.

Chính cái Thật đó mà khổ đau phát sanh cũng là Thật.

Kinh Sự Thật Đích Thực (do sư ông Làng Mai tuyển dịch) (Kính Diện Vương Kinh) Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ năm, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Paramatthaka Sutta,Sutta-Nipàta 796-803

 1. Mình còn mờ mịt mà cứ nói rằng kẻ kia chẳng bằng mình. Vướng víu si mê, cứ để tháng ngày trôi qua, bao giờ mới có cơ hội thấy rõ chân lý? Chưa có pháp môn tu đạo mà cứ nói mình đã thực tập xong xuôi. Tâm còn loạn động, chưa biết hành trì, bao giờ mình mới có được kiến giải thực sự?

2. Cứ nghĩ rằng người khác phải hành trì theo cái hành trì của mình. Tự cho rằng cái thấy, cái nghe và cái thực tập của mình là không ai bằng được. Chính mình đang bị sa đọa và ràng buộc vào trong năm cái hang động dục lạc của cuộc đời mà mình vẫn cứ ba hoa nói mình hơn người.

3. Còn ôm chặt si mêvọng tưởng mà cứ tưởng rằng mình đã đạt tới chỗ chí thiện. Cái học hỏi và sự thực tập của mình còn sai lạc mà mình lại cứ ham muốn độ đời. Những gì thấy, nghe, suy nghĩ, và cả những nghi lễcấm giới mà mình hành trì, mình vẫn còn bị kẹt vào đấy, chưa thoát ra khỏi.

4. Bậc thức giả thấy người thế gian đi theo con đường ấy thì nhất quyết không chịu đi theo. Ta chỉ nên hành trì theo chánh niệm và trong khi hành trì phải hết sức thận trọng. Đừng cho rằng mình bằng người, hơn người hoặc thua người.

5. Cái bây giờ mình không nắm bắt, cái sau này cũng tuyệt đối không làm mình vướng bận. Buông bỏ mọi chủ thuyết, mọi ý tưởng, một mình đi trong tự do. Tuy vẫn có cái biết và cái thấy, nhưng thường quán chiếu để không bị kẹt vào chúng.

6. Không kẹt vào cái nhìn lưỡng nguyên, không kẹt vào ý niệm thọ mạng, ý niệm về đời này và đời sau, kẻ trí giả đi theo con đường trung đạo, quán chiếu các pháp để đạt tới thiền định chân chính.

7. Phải quán chiếu về những gì thấy, nghe và cảm nhận để đừng khởi lên tà niệm và bị kẹt vào tri giác sai lầm. Dùng trí tuệ để quán chiếu tâm ý và đối tượng tâm ý để buông bỏ được tất cả, không còn bị vướng vào một pháp nào trong thế gian.

8. Nếu các pháp đều không thực sự hiện hữu, thì còn pháp hành trì nào nữa để cho ta kẹt vào? Phải biết tìm trong pháp hành trì của mình cái đệ nhất nghĩa đế, cái sự thật đích thực. Không bị kẹt vào nghi lễgiới cấm, không cho đó là chân lý, nhờ đó mà vượt qua được bờ bên kia, không bao giờ còn trở lại chốn sinh tử.

Qua Kinh Sự Thật Đích Thực do sư ông Làng Mai diễn dịch từ 8 bài kệ, cho thấy tính chủ quan của mình khi đánh giá người khác về nhiều khía cạnh, nhất là pháp hành trì.Tự cho pháp hành của mình là đúng, người khác là sai. Còn chấp chặt si mê vọng tưởng mà ngỡ mình đã đạt đến chỗ chí thiện, ham muốn độ đời. Hành giả cần quán chiếu thoát vượt nhị nguyên để không bị vướng kẹt chấp ngã, chấp pháp bởi tri giác sai lầm.Các pháp thật sự không hiện hữu!

Tầm nhìn do định kiến được chủng tử huân tập trong quá khứ, môi trường sống và sự truyền đạt hiện tại,hướng đến xây dựng  một tương lai trên cơ sở tri giác sai lầm…tất cả đều là sự thật. Nhưng, trước cái quanh quẩn lòng vòng kiếp sống,các nhà viễn kiến khoa học đi tìm nguyên nhân ban đầu để xác định cái Thật hiện tại. Trãi qua bao giai đoạn trong quá khứ, từ một hiện tượng giản nở,Big Bang ra đời, xem đó là khởi nguyên của hiện hữu. Đối với nhiều người, Big Bang đã thay thế ý niệm về sáng tạo thế giới của tôn giáo.(Trịnh Xuân Thuận, nhà thiên văn học)   cũng lúc này, để tương thích với khoa học,dọn chỗ cho giáo lý Kito với khoa học,  năm 1951, Giáo Hoàng Pius XII đã liên kết lời Chúa dạy trong sách Sáng Thế Ký  "Hãy có Ánh sáng" với sự nổ bùng của Big Bang.Nhưng, đối với nhà khoa học kiêm tu sĩ Lạt Ma bảo rằng: Big Bang như thế chỉ giản dị là một giai đoạn nào đó trong một chuỗi dài chuyển đổi liên tục vô thuỷ vô chung…

Dĩ nhiên trước đó cũng đã sản sanh lý thuyết Thần tạo. Trong số tín hữu Thần tạo lần ra manh mối một luồng sáng mới đối nghịch với sự truyền đạt tín điều,quan kiến đó đã bị bịt đầu mối, mãi đến khi khoa học khai sáng nhiều yếu tố vừa mang tính thực dụng, vừa mang tính siêu hình; tất cả những lý thuyết quá khứ phải xét lại. Từ thế kỷ hậu bán thứ XV, khoa học chớm phát triển,mãi đến tiền bán thế kỷ XX, vật lý thực dụng giúp khoa học có bàn đạp tiến sâu vào lĩnh vực vũ trụ học, trong đó viễn vọng kính Hubble đã giúp các nhà khoa học có tầm nhìn và định lượng thoáng đạt hơn về vũ trụ.

 “Ngay từ những năm 1940, người ta đã bắt đầu nung nấu ý định về một chiếc kính viễn vọng không gian nhưng mãi đến cuối những năm 1970 thì đó vẫn chỉ là ý tưởng, đề xuất và nhiều nhất là phác thảo trên bàn giấy. ..Rồi thì qua bao nỗ lực, cuối cùng vào tháng 4 năm 1990, Hubble đã hoàn thànhchính thức phóng lên quỹ đạo từ Trạm không quân mũi Canaveral, Hoa Kỳ. Nó có thể thu nhận ánh sáng từ vật thể cách xa 12 tỉ năm ánh sáng (Kính viễn vọng không gian Hubble).

lý thuyết dây ra đời (String  Theory) Lý thuyết dây không chỉ dừng lại như là một thuyết của tương tác mạnh, mà nó còn là một thuyết hấp dẫn lượng tử. , thuyết dây là một thuyết hấp dẫn lượng tử có nền tảng toán học vững chắc, và các nhà lý thuyết hy vọng có thể đo được giá trị của hằng số vũ trụ dựa trên các tiên đề của nó.(lý thuyết dây)

 Các nhà khoa học thẩm thấu vào lý thuyết dây, vở lẽ rằng chúng cũng chỉ là sự tập hợp các nguyên tử, mà nguyên tử cũng không phải là điểm cuối cùng, chúng có đám mây di chuyển chung quanh hạt nhân trung tâm gồm proton và neutron, và bên trong proton, neutron còn có những hạt nhỏ hơn gọi là hạt quark, biến nó thành sợi dây năng lượng dao động ,chúng tạo ra các phân tử khác nhau cấu thành nên thế giới vật chất. Vì thế nếu những quan niệm này đúng, đây là khung cảnh siêu vi của vũ trụ Thật. Nó được xây dựng bởi một số lượng lớn các sợi năng lượng dao động siêu nhỏ, dao động với các tần số khác nhau. Những tần số khác nhau này tạo ra các phân tử khác nhau. Các phân tử khác nhau này chịu trách nhiệm làm nên cuộc sống giàu màu sắc quanh ta…(lý thuyết dây và sự cố gắng của nhân loại).Đây là sự Thật ư?

Vậy do đâu có string theory? Đến đây là đoạn bế tắt, các nhà khoa học vật lý cần một bước nhảy qua  một khoản không vô tận, khoản không này có thể là black hole, có thể là “duy thức học “của nhà Phật? Đây là sự           Thật !

Trong quá trình truy tầm và thử nghiệm, Lý thuyết siêu đối xứng, Lý thuyết dây là học thuyết lớn nhất, Thuyết tương đối rộng và thuyết trường lượng tử…đều là lý thuyết trừu tượng chứng minh sự hiện hữu vật thể, lúc bấy giờ  được xem những phát minh đó là Thật.Nhưng cái gì làm ra chúng???

Đến khi,nhà khoa học Brian Greene nói mọi vật kể cả chúng tacon người có thể là hình chiếu holograms, nếu “tắt đèn chiếu” đi thì mọi vật sẽ biến mất. Hình holograms là hình nổi như thật, nhưng đó chỉ là chiếc bóng không sờ đụng được, khác với hình ảnh trên màn hình, nó xuất hiện trong không gian như thật, khi tắt máy thì chúng cũng biến mất; Đây quả là bước tiến nhảy vọt không cần thông qua lý thuyết trừu tượng để chứng minh mọi vật hiện hữu chỉ là ảo ảnh, do đó, neutron, proton, hạt nhân, hạt quark…cũng chỉ là chiếc bóng chập chờn trước ống kính tâm thức bị lão hóa.Brian Greene đã chạm đến ngưỡng cửa khoa học “Duy thức” của Phật giáo. Đây là sự Thật

                                                 ***

Về khoa học vật lý mằn mò đã là thế, lòng vòng không tìm thấy đầu dây mối nhợ, trong lúc đó, các nhà khoa học tâm linh không cần sử dụng tiện nghi vật lý, vẫn có thể chứng minh được sự hiện hữu mọi hiện tượng

 “Khoa học thẩm thấu nhiều ngóc ngách cuộc sống, trong đó, cổ sinh vật học,cổ địa lý học, cổ khí hậu học, cổ thực vật, sinh vật,động vật học và sinh thái học…về mối tương quan, tương tác lẫn nhau, đưa đến sự tiến hóa trong vũ trụ và riêng tinh cầu chúng ta.

Theo quan kiến của các bậc minh triết chứng đắc:…trong tiến trình sinh hóa, loài Kim thạch tiến hóa thành loài Thảo mộc, thì các phần tử Kim thạch phải tan biến thành đất để nuôi loài Thảo mộc,sắc tướng Kim thạch có tan rã thì sắc tướng thào mộc mới phát sinh.Nói một cách khác, Kim thạch có hy sinh làm đất thì Thảo mộc mới có thể sinh sôi nảy nở. Cũng như thế, loài Thảo mộc có trở nên thức ăn nuôi dưỡng thì loài Thú cầm mới có thể phát triển được.Cỏ cây hoa lá có hy sinh thì sự tiến hóa của chúng xuyên qua các loài Thú cầm mới tiếp tục được. Sắc tướng này có chết thì sắc tướng khác mới nảy sinh. Sự tiến hóa từ loài Kim thạch qua loài Thảo mộc không gây đau khổ vì sự phát triển của chúng còn thô thiển nên chưa có cảm xúc.Tuy nhiên bắt đầu ở loài Cầm thú thì các thể tình cảm đã phát triển nên chúng biết cảm xúc đau đớn nhưng vì lý trí chưa phát triển mấy nên chúng sống bằng bản năng nhiều hơn.Khi tiến hóa chuyển kiếp thú thành người, các thể tình cảm phát triển rất mạnh, nhưng con người khác con thú ở điểm họ bắt đầu phát triển  thêm về lý trí nên có thể tự do lựa chọn. Loài Kim thạch, Thảo mộc, Cầm thú hoàn toàn sống theo các định luật thiên nhiên, nhưng con người có thể quyết định đời sống của mình.

Chu trình tiến hóa của loài người bắt đầu phát triển các thể tình cảm (xác thân) và sau đó phát triển các thể lý trí (tinh thần) và khi lý trí chủ trị được tình cảm thì họ sẽ bước vào một giai đoạn tiế hóa mới.” (Trở về xứ Tuyết của Nguyên Phong)

Những  minh chiếu trên đây cũng là giai đoạn triển khai hữu hình trong một chuổi dài diễn hóa tâm thức.Nó là Thật của cái thật vọng tưởng.Một câu nói nổi tiếng của một Thiền sư: “Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không”. Trong giấc mộng, mọi hiện tượng đều là thật, và thấy rất thật đến khi tỉnh thức, những hiện tượng đó hoàn toàn diễn ra hết sức phi logic, cái biết phi logic này cũng rất thật. Cái Thật của mộng và cái thật lúc thức đều là thật trong giai đoạn ước định.

Cuộc sống trầm luân là đêm dài lắm mộng, tạo ra mắc xích nhân quả, tạo nên luân lưu trong lục đạo thấy như là Thật, có khổ đau thật, sung sướng thật, cỏi Trời hưởng lạc là thật, địa ngục khổ đau là thật…cũng như màn ảnh Holograms, dưới tuệ giác của bậc chứng đắc giác ngộ, chúng là hình nổi trong không gian đa chiều như là Thật; mà Thật như là… “nhạn quá trường không - ảnh trầm hàn thủy”

Khi  đã hiểu mọi vậtKhông Thật, đó là sự thật trong nghiệp thức quy ước của trầm luân. Nó không có một bản thể cố hữu quyết định làm nền tảng, thì làm gì có nguyên nhân khởi đầu để làm căn bản tìm ra manh mối cho thiên hà vạn vật là Thật?

Hành giả khai phá vũ trụ qua tâm thức không bị bế tắt như nhà khoa học đứng trên đầu sào trước hố thẳm cheo leo. Trang bị hành trang cho hành giảtinh thần Bát Nhã tâm kinh, trong khi khoa học gia phải trang bị mớ kiến thứclý thuyết hổn độn bên đống ngổn ngang máy móc vật lý. Dùng vật lý đi tìm khởi nguyên vật lý cũng chỉ là người trên lưng trâu đi tìm trâu. Hành giả buông bỏ, kể cả ý niệm về buông bỏ mới thấy được ngọn ngành của mọi hiện tượng. Sự thật được hiển bày.

                                                    ***

Từ đây được hiểu rằng,đối thoại, phán xét được trang bị kiến thức một chiều, chắc chắn không thể đúng đối với đối tượng bị phán xét, bị kết tội,có một trang bị kiến thức, hiểu biết ở một lãnh vực khác chiều.Đây là sự thật nếu muốn hóa giải một cách dung hợp trong tinh thần đoàn kết xây dựng. Với Kinh Sự Thật Đích Thực, hãy từ tốn, chẫm rãi thấm đượm từng phần, chiêm nghiệm từng phần, sẽ thấy vị tri ta đang đứng ở đâu, đang là thầy thiên hạ hay là đang xin học những gì thế gian có, để làm tư lương vượt thoát kiến giải đang bị nhị nguyên bó buộc.

Cái hiểu biết, cái học hàm học vị là chiếc bóng tàng cây lê thê quét trên mặt đất, chả giúp làm sạch bụi bẩn, và cũng chả giải quyết được ảo ảnh nghiệp thức của muôn loài, đây là sự thật mãi đến khi tìm được sự thật thoát khỏi vô minh.

Kinh Sự Thật Đích Thực:

 1. Mình còn mờ mịt mà cứ nói rằng kẻ kia chẳng bằng mình

2. Cứ nghĩ rằng người khác phải hành trì theo cái hành trì của mình

3. Còn ôm chặt si mêvọng tưởng mà cứ tưởng rằng mình đã đạt tới chỗ chí thiện.

4. Bậc thức giả thấy người thế gian đi theo con đường ấy thì nhất quyết không chịu đi theo. Ta chỉ nên hành trì theo chánh niệm và trong khi hành trì phải hết sức thận trọng

5. Cái bây giờ mình không nắm bắt, cái sau này cũng tuyệt đối không làm mình vướng bận. Buông bỏ mọi chủ thuyết, mọi ý tưởng, một mình đi trong tự do.

6. Không kẹt vào cái nhìn lưỡng nguyên, không kẹt vào ý niệm thọ mạng, ý niệm về đời này và đời sau, kẻ trí giả đi theo con đường trung đạo, quán chiếu các pháp để đạt tới thiền định chân chính.

7. Phải quán chiếu về những gì thấy, nghe và cảm nhận để đừng khởi lên tà niệm và bị kẹt vào tri giác sai lầm.

8. Nếu các pháp đều không thực sự hiện hữu, thì còn pháp hành trì nào nữa để cho ta kẹt vào?

Với tinh thần thiền sư thì:

Bóng trúc quét sân trần chẳng động,

Vầng trăng xuyên biển nước không xao.

(Hoè An Quốc Ngữ)

 

Minh Mẫn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11053)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14347)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11506)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12678)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12284)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11060)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10940)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13403)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11840)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13716)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11945)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11208)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12270)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12442)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20646)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12457)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12485)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11753)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11633)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22463)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13613)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29749)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11581)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16799)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12040)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16895)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12128)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17979)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12690)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13208)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14801)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22702)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10620)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14094)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13899)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13751)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13912)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13970)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14863)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13904)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18459)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22857)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15443)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17358)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22439)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14295)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12651)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11221)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17815)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13241)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13151)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18840)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17208)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13553)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12966)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14742)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14725)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15917)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13555)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27491)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant