Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tập Sống Với Tâm Xả

02 Tháng Tám 201908:29(Xem: 3905)
Tập Sống Với Tâm Xả

TẬP SỐNG VỚI TÂM XẢ
Thích Thông Phương

Trong kinh Pháp Cú Phật dạy:

Người ngu si thiếu trí, Tự ngã thành kẻ thù, Làm các nghiệp không thiện, Phải chịu quả đắng cay.

Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.

Biến tự ngã mình làm kẻ thù của mình là sao? Là tự mình làm nghiệp không thiện để rồi chịu quả khổ, quả dắng cay.

Tự mình đem đau khổ lại cho mình chứ không phải người ngoài đem đau khổ lại cho mình. Nghĩa là tạo nghiệp xấu, gây đau khổ cho người thì quả đau khổ đó sẽ trả lại cho mình. Như vậy không lo tự trách mình lo trách ai.

Quí Phật tử xét kỹ xem ai đã đem quả báo xấu ác đến cho mình? Chính mình tự tạo thôi. Mình tạo cái nhân xấu trước rồi quả xấu đó mới đến với mình. Như vậy mới nói chính mình làm khổ mình mà lại không hay. Đã hiểu như vậy rồi thì phải khéo sống để tránh nhân quả xấu. Tránh đau khổ cho mình cũng là thấy được oan trái rất là đáng sợ.

Nên người khéo tu thì không kết oan trái thêm với người mà phải cởi mở. Phải tập sống có tâm từ, bớt gây hờn, gây hận, cũng không đem oán hận đến cho người. Đây Phật dạy rất rõ, chính mình tự biến mình thành kẻ thù của mình chứ không ai khác.

Ngài Đạt Lai Lạt Ma cũng có dạy cách giải tỏa những oán hờn: “Đây là cách để biết được cái kẻ thù đích thực đang nằm trong lòng chúng ta, đâu phải ở bên ngoài. Đừng lo tìm bên ngoài mà phải soi lại để thấy rõ nó nằm ngay trong lòng mình đó. Đó chính là tính ích kỷ, lòng quyến luyến và sự tức giận của chúng ta”.

Nó chính là kẻ thù trong lòng mình, gây đau khổ cho mình, vậy mà chỉ lo nhìn bên ngoài. Ngài bảo chúng ta nên biết: “khả năng kẻ thù gây ra cho chúng ta rất là hạn hẹp. Nếu người nào đó thách thức kích động chúng ta thì chúng ta nên kiềm chế lại không tức giận, tập lâu rồi thuần thục sẽ không còn tức giận, dù người đó có làm gì thì cũng không thể gây hại cho chúng ta.

Trái lại, khi họ gây những cảm giác vô cùng tức giận, hay chính lòng ham muốn của ta xuất hiện thì chúng tạo nên sự rối loạn trong tâm hồn chúng ta. Tâm khởi lên sự tức giận nào đó thì ta sẽ cảm thấy bất an trong tâm mình. Ngay lúc đó chúng phá hoại sự an lạc trong tâm, cũng như tạo nên sự buồn phiền hủy diệt công đức tu hành của chúng ta”.

Rõ ràng kẻ thù ở ngay trong lòng mình chứ không ở đâu xa. Nghĩa là khi tức giận không kiềm chế được làm hành động đáp trả lại thì chính khi đó ta đã tự hủy diệt công đức tu hành của mình. Như tu một tháng mà khi nóng giận chưởi người ta chừng một tiếng đồng hồ thì sao? Thì công phu một tháng sẽ tiêu hết phải không?

Rõ ràng nếu làm như vậy thì đúng là mình hại mình. Mình hại mình trước chứ đâu có ai hại mình. Và mỗi khi mình tức giận ai đó thì mình cứ tưởng người ta khổ chứ sự thật thì mình khổ trước. Khi mình tức giận thì trong tâm bứt rứt, sôi sục tự đốt mình, là mình khổ trước người ta rồi.

Thấy được điều đó thì chúng ta phải giải tỏa chứ không kết thêm, phải biết kiềm chế. Cho nên, mỗi người phải tu tập cái tâm, thấy rõ oán hậnkhổ không chút nào vui hết.

Cho nên, đừng nghĩ rằng mình giận ai đó là giận cả đời, nhiều khi chúng ta hiểu lầm nói giận ai đó là giận cả đời không quên, tưởng đâu như vậy là hay, nhưng đâu phải vậy.

Nếu mà giận cả đời là khổ cả đời luôn. Lâu lâu gặp người đó thì sao? Mình khổ trước thôi.

Quí vị nghĩ, sống trên đời này mà giận cả đời chừng 20 người thì sao? Thì mình ít khi cười được lắm! Lâu lâu ngồi nhớ lại chuyện giận hờn thì làm sao cười được? Rồi lâu lâu nghĩ đến anh kia thật là đáng tức, chị kia thật đáng hận... Vậy là cả ngày sẽ không có nụ cười.

Nên Phật dạy “Oán tắng hội khổ”. Người không ưa mà cứ gặp hoài thì khổ. Chúng ta phải tu tập tâm xả để cởi mở bớt thì đó là cái hạnh đưa đến an vui. Còn kết hờn kết oán thì chỉ làm khổ, khổ mình mà khổ cho người nữa. Quý phật tử nghĩ lại xem, mình sống trên đời này được bao lâu? Năm bảy chục năm là dài.

Chư Phật lại dạy đời người chỉ sống trong hơi thở, mà đã sống trong hơi thở thì hờn giận làm cái gì? Ai mà luôn nhớ mạng sống của mình trong hơi thở thì còn hờn giận làm gì! Bởi ai cũng nghĩ mình sống năm bảy chục năm nên mới hờn cho đã giận. Còn nghĩ mạng sống của mình chỉ trong hơi thở thì còn thời gian đâu mà giận. Giận nhiều hay ít rồi cũng chết, vậy giận làm gì? Nếu luôn nhớ nghĩ như vậy thì cởi mở, sanh thêm lòng bi mẫn với nhau, thôi gây đau khổ thêm cho nhau.

Đây không phải nói trên lý thuyết, mạng sống con người trong hơi thở là lẽ thật. Vì chúng ta nhìn theo con mắt chúng sanh nên thấy nó lâu dài, nếu xét kỹ thì mạng sống đúng là chỉ trong hơi thở. Chúng ta đang sống tạm trong hơi thở, nếu hít vô thở ra mà không hít vô nữa thì sao? Thì chết liền. Rõ ràng là sống trong hơi thở chứ gì.

Nếu hơi thở ra mà không hít vào là chết. Như thế mới thấy cuộc sống con người rất mỏng manh, có gì đâu để kết oán, kết hờn với nhau. Hơn nữa, thế gian này đã quá nhiều đau khổ rồi còn đem đau khổ đến cho nhau chi nữa. Nên giờ đây phải tập sống với tâm xả, xả bớt và xả dứt “cái tôi” này, đó là cái căn bản. Tham sân si đều từ “cái tôi” đó, xả là phải xả cái gốc chứ còn xả cái này cái kia mà không xả “cái tôi” cũng là chưa xả hết đâu!

Bởi vì tham là tham cho ai? Còn sân là tại sao sân? Là tại đụng tới tôi. Nếu không có tôi thì ai sân? Còn si thì tại sao si? Tại mê cái tôi này, tưởng đâu nó là mình thì đó là si. Mình có phải cái thân này không, phải cái tâm này không? Quí vị kiểm kỹ xem thân này là cái gì? Do đất, nước, gió, lửa hợp thành. Mà đất là cái gì? Là thứ vô tri đâu có biết gì! Nước có hiểu biết gì? Gió có hiểu biết gì? Lửa có hiểu biết gì? Thế mà cho mình là mấy thứ vô tri như vậy nên si là ở chỗ đó.

Nếu nói theo hình tướng thì do da, gân, thịt, xương, máu huyết tụ lại thành thôi chứ có gì đâu! Đúng ra nói đây là bộ xương, ngoài có da bọc lại, trong đó có một số máu gân vậy thôi! Vậy xương thịt nó có biết gì không? Rồi gân máu nó có biết gì không? Và thần kinh nó có biết gì không? Thường thì người ta nói thần kinh biết nhưng người chết dây thần kinh vẫn còn mà nó đâu có biết, có cái gì đó gá vào thôi. Rồi chấp mình cũng là mấy cái thứ đó, rõ ràng là si.

Bây giờ khoa học tiến bộ càng thấy rõ hơn, cái túi máu mà lúc chưa truyền vô người mình thì nó là của ai? Nhưng khi truyền vô người mình rồi thì sao? Nói nó là của tôi. Rõ ràng si là ở chỗ đó.

Hiện nay, quả thận người ta cũng thay được. Và khi lấy trái thận của người khác ghép vô thân mình còn trái thận của mình khi cắt bỏ ra thì đó là của ai? Cũng như con mắt bị hư bỏ ra ngoài rồi thì của ai? Hoặc cái chân bị tai nạn cưa bỏ ra ngoài rồi thì cái chân đó của ai?

Cho nên, gốc si là cái tôi mà xả cái tôi rồi thì mấy cái kia cũng theo mà xả hết. Dù cho chúng ta có xả cái này, xả cái nọ, xả cái kia mà không xả cái tôi thì “cái si” vẫn còn. Nên quý vị thấy những người có tâm tốt bỏ ra cái này cái nọ cái kia để cứu trợ thì đó là tâm xả nhưng chỉ lo xả cái này mà không xả cái tâm si thì sao? Thì nhiều khi bố thí cũng bị phiền não.

Bố thí cho mà bị người giành giựt thì cũng phiền não. Có khi bố thí cho người cái này mà khi ra ngoài người không cần đem bỏ đi hoặc cho lại người khác thì sao? Buồn!

Vật chất mình đã đem cho người rồi mà cứ nghĩ của mình. Đúng ra, mình đã cho người ta rồi thì là của người ta, tùy người sử dụng. Nếu đã cho rồi mà vẫn còn nhớ cái đó là của mình nên buồn nên trách. Cho nên, người khéo xả cái tôi này trước thì xả bên ngoài mới yên. Nếu chỉ lo xả ở ngoài mà không xả cái tôi thì vẫn còn sanh chuyện. Đó là cái gốc. Và cũng chính vì cái tôi đó mà thành ngăn cách với tất cả.

Trích "OÁN HẬN NÊN GIẢI KHÔNG NÊN KẾT" - TT. Thích Thông Phương

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3499)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7356)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4526)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4581)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7355)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2973)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12228)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4005)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4233)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3702)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5074)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6699)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4015)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4135)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5348)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3793)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4543)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3937)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4400)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5397)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3849)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3945)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4533)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3846)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4649)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4216)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6122)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4617)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4958)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4200)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4840)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5675)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3662)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4058)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4599)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5295)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3152)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4769)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4566)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4306)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4753)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4505)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4611)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7237)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5220)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5012)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4604)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5626)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5284)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4166)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6026)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4724)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4887)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5497)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5632)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant