Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào

29 Tháng Chín 201901:59(Xem: 6170)
Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào
Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào 

Liên Trí

Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào


Thái độ của Đức Phật đối với các loại thần thông

Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên những gì khác lạ với những hoạt động bình thường của con người đều có sức hấp dẫn. Do đó, hầu hết dân chúng đều ngưỡng mộ những người có khả năng thi triển biến hóa thần thông vì cho đó là những khả năng đặc biệt từ những người siêu xuất. Những phép mầu như ảo hóa, huyễn hoặc ấy có sức lôi cuốn mãnh liệt khó cưỡng. Không chỉ người cư sĩ tại gia bị cuốn vào trong các biến hóa thần thông này, mà đến cả người xuất giathời Phật, như Tỳ-kheo Sunakkhatta cũng có thái độ bất mãnphẫn nộtừ bỏ đời sống xuất gia, trở lui về đời sống thế tục chỉ vì ông chỉ trích Phật không có thần thông biến hóa (Đại kinh sư tử hốngTrung bộ kinh, số 12).

Thật ra, Đức Phật thành tựu đầy đủ tất cả các loại thần thông nhưng Ngài rất hạn chế trong việc sử dụng chúng như là một cách biểu diễn năng lực đặc biệt nhằm đáp ứng tâm lý tò mò, hiếu kỳvới điều lạ lùng, khác người của số đông dân chúng, vì Ngài thấy điều này không đem lại lợi íchthiết thực nào cả.

Trong những tình huống cần thiếtĐức Phật vẫn sử dụng thần thông, nhưng Ngài sử dụng rất hạn chế và dè dặt. Trong Tăng chi bộ kinh, chương Hai pháp, phẩm I, ghi lại rằng, Đức Phật, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy, biến mất ở Thắng Lâmhiện ra ở Đông Viên, theo lời yêu cầu của chư ThiênMột lần khác, Đức Phật trên con đường đến Kusinara, đi đến sông Hằng. Lúc bấy giờ sông Hằng tràn ngập nước đến bờ bên kia. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi tìm phao, có người cột bè để đi qua bờ bên kiaThế Tôn mau lẹ như người lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất từ bờ bên này và hiện ra bờ bên kia với chúng Tỳ-kheo (Trường bộ kinh số 16: Kinh Đại bát Niết-bàn). Trong những trường hợpcần sự có mặt kịp thời của Đức Phật tại một nơi cách xa mà với cách di chuyển bình thườngNgài không thể đáp ứngĐức Phật không ngại sử dụng thần thông như một phương tiện. Trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay của một người khỏe mạnh, Ngài đã có mặt ở nơi cần đến. Đây là lý do chính đáng để sử dụng thần thông biến hóa. Điều này đối với Ngài bình thường và đơn giản, như thể chúng ta sử dụng các phương tiện đi lại để phục vụ cho nhu cầu của mình. Khi nào không gấp gáp và đoạn đường gần, ta đi bộ. Khi khoảng cách xa, ta đi xe máy và với không gianxa nữa, ta đi ô tô, máy bay.

Không những Đức Phật mà các đệ tử dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Ngài cũng không lạm dụng việc thi triển thần thông. Có lần chư Tăng đến nhà gia chủ Citta thọ trai theo lời mời của gia chủ. Hôm đó, trời nóng gay gắtchư Tăng đổ mồ hôi “thân như bị chảy thành nước”. Trong lúc ấy, có vị Tỳ-kheo Mahaka mới tu chưa được bao lâu, liền dùng thần thông khiến cho có gió mát, có giông nổi lên và mưa bắt đầu rơi hạt, trời dịu mát. Rồi Tỳ-kheo trẻ này thưa vị Trưởng lãotrong chúng “như vậy là vừa rồi, bạch Trưởng lão” thì Trưởng lão ấy cũng xác nhận “như vậy là đủ rồi, cúng dường vậy là đủ rồi”. Sau đó, gia chủ Citta cảm kích năng lực thần thông của Tỳ-kheo Mahaka, mới theo về tịnh xá vị ấy ở, yêu cầu thi triển thần thông lần nữa cho gia chủ xem. Tỳ-kheo Mahaka bảo đem bó cỏ đặt trên một chiếc thượng y trong hành lang. Rồi Tôn giảMahaka vào trong tịnh xá, gài then cửa lại, thực hành thần thông lực khiến cho ngọn lửa phun ra từ lỗ ống khóa và giữa các khe cửa, đốt cháy cỏ nhưng không đốt cháy thượng yGia chủ Citta đập thượng y, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược. Tỳ-kheo Mahaka, từ tịnh xá đi ra và nói với gia chủ Citta “thôi, như vậy là vừa rồi”. (Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương XII, kinh số 4).

Như vậy, khi cần thiết, trong trường hợp này là lúc trời nóng quá, tạo nên sự khó chịu, không thể tập trung, ảnh hưởng đến sự thanh tịnh của chúng Tăng khi đang thọ thực tại nhà gia chủchư Tăng cũng có thể vận thần thông để đem lại sự mát mẻdễ chịu cho đại chúng. Trong một  trường hợp khác, khi gia chủ yêu cầu, để xác chứng kết quả tu tập của mình nhằm tạo niềm tinvào Tam bảo cho người mới tiếp cận giáo pháp, Ngài cũng cho phép chư Tăng thể hiện năng lựcthần thông. Tuy nhiên, người thi triển thần thông không sa đà vào đó mà dừng lại ở điểm “như vậy là đủ rồi”, vì kết quả tu tập của một hành giả đâu chỉ ở khả năng thi triển thần thông? Rất nhẹ nhàng, bức thông điệp Ngài trao gởi cho các đệ tử rằng, đây chỉ là phương tiện để tạo môi trường tốt nhất, tâm lý thoải mái nhất để chư Tăng thực hành và hướng dẫn Chánh pháp mà thôi. Quan điểm của Đức Phật rất rõ ràngnhất quán rằng chỉ thi triển thần thông khi thật sự cần thiết và chỉ để phục vụ cho việc hoằng pháp mà thôi.

Đức Phật không dùng thần thông để chiêu dụ người

Trong nhiệm vụ cảm hóa người khác bằng con đường giáo dụcchúng ta thấy Đức Phật đã lựa chọn một phương pháp rất đặc biệt, như được ghi chép trong kinh Kevaddha (Trường bộ kinh, số 11). Kevaddha yêu cầu Đức Phật dạy cho Tỳ-kheo hiện pháp thần thông để nhiếp phục dân chúng ở Nalanda. Thế Tôn từ chối không chấp nhận và dạy rằng trong ba pháp thần thông: Thần túc thôngTha tâm thông, và Giáo hóa thần thông, Ngài chỉ lựa chọn Giáo hóa thần thông, tức là chỉ sử dụng phép mầu của giáo dục để cảm hóa mọi người mà thôi. Trong quá trình thực hiệngiáo dục thần thông này, trong một số tình huống cần thiết, Ngài sử dụng các loại thần thông kia như những phương tiện hỗ trợ cho quá trình này diễn ra hiệu quả hơn.

Biến hóa thần thông và tha tâm thần thông là kết quả của sự tu tậpthực hành Chánh pháp, do vậy, Ngài dùng từ “thành tựu” khi nói về các loại thần thông này. Tuy nhiên, đây chưa phải là cứu cánh giải thoát, nên đừng để dính mắc vào sự thành tựu này mà chướng ngại trên đường tu tập. Vả lại, không vì khả năng hơn người này mà sử dụng tùy tiện với mục đích không cao thượng. Đoạn kinh trên là một hồi chuông cảnh tỉnh cho hàng đệ tử xuất gia của Phật, không sử dụngchiêu trò gì, dưới bất kỳ hình thức nào, để lôi kéo, thu hút dân chúng đến với mục đích cho đông đảo về số lượng. Nhiệm vụ của người xuất gia là thắp sáng tâm lành của người tu học Phật, đáp ứng nhu cầu học pháp và hành pháp cho người có duyên với Phật pháp, chứ không phải dùng các cách “đắc nhân tâm” không phù hợp với Chánh pháp chiêu dụ cho đông đảo người về với mình vì mục đích lợi dưỡngNếu không nhắc nhở mình, người hướng dẫn pháp dễ dàng đi lệch hướng và bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi khi sống bao vây giữa sự cung kính và lợi dưỡng của dân chúng mà xa dần con đường thực hành và hướng dẫn nếp sống phạm hạnh.

Có tình huống Đức Phật tạm thời dùng thần thông trong một thời điểm nào đó đối với chúng sanh còn mê mờ chưa giác ngộ, nhưng đó chỉ là phương tiện để dắt dẫn đối tượng đến với sự thực hành giáo phápCâu chuyện về Tôn giả Nanda, một người em cùng cha khác mẹ với Đức Phật, cho chúng ta thấy Đức Phật dùng thần thông để đưa Nanda lên quan sát cõi trời, nhìn thấy các thiên nữ xinh đẹp để Nanda so sánh sắc đẹp của các thiên nữ với người vợ đẹp mới cưới của mình, rồi Đức Phật hứa sẽ cưới 500 thiên nữ xinh đẹp cho Nanda sau khi Nanda thực hànhphạm hạnh rốt ráothành tựu đạo quảRốt cuộc, trong quá trình thực hành pháp, cảm nhận được hạnh phúc tối thượng của đời sống giải thoát, không dính mắc, tự tại của người xuất giaphạm hạnh, Tôn giả Nanda đến Đức Phật xin hủy lời hứa trước kia (Chú giải Kinh Pháp cú). Ở đây, Đức Phật dùng thần thông để chiêu dụ Nanda đến với giáo pháp, nhưng đó chỉ là cái cớ để tạo duyên cho Nanda thực hành pháp và chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát; đây mới là mục đích của Đức Phật vậy.

Dùng thần thông để có thể dễ dàng tiếp cận đối tượng

Đức Phật thường sử dụng các loại thần thông như là một phương tiện hỗ trợ cho công việc giáo hóa của Ngài được thuận tiện hơn và hiệu quả hơn. Cách Ngài sử dụng biến hóa thần thông và tha tâm thần thông trong các trường hợp đặc biệt được trình bày ở đây cho chúng ta hiểu rõ hơn về điều này. Trong  một số tình huống, Ngài dùng thần thông để có thể tiếp cận đối tượng cần giáo hóa một cách dễ dàng hơn, cụ thể nhất là trường hợp Đức Phật độ tướng cướp Angulimāla (Trung bộ kinh số 86: kinh Angulimāla; Trưởng lão tăng kệ, câu 866 đến 891). Khi cần thiết, Ngài dùng thần thông hiển lộ đầy đủ 32 tướng đại nhân để nhiếp phục một nhóm Bà-la-môn ngoại đạoquy ngưỡng Ngài và sẵn lòng tiếp nhận giáo pháp giải thoát (Trung bộ kinh số 91: kinh Brahmayu; kinh số 92: kinh Sela). Ta tìm hiểu kỹ hơn về trường hợp Ngài độ tướng cướp Angulimāla. Đây là một trong vài trường hợp hiếm hoi Đức Phật sử dụng biến hóa thần thông.

Để có thể tiếp cận với tướng cướp hung hãn này, Đức Phật chọn cách dùng đến thần thông là điều hợp lý nhất, vừa để kịp thời tiếp cận đối tượng, vừa tạo uy lực trước Angulimāla. Chính sự phi thường của Đức Phật bước đầu gây tò mò và thán phục đối với Angulimāla, để rồi từ đó, Đức Phật có khả năng cảm hóa tướng cướp bạo tàn này chịu dừng lại để có cuộc đối thoại với Ngài. Chính sự biến hóa thần thông của Đức Phật đã giúp tên cướp này thay đổi cách ứng xử. Angulimāla đã hành xử hoàn toàn khác với Đức Phật, thay vì với bao nhiêu người trước đó, hễ gặp mặt là tên cướp này liền giết một cách vô cảm, chặt ngón tay kết thành vòng hoa, rồi tiếp tụcđi tìm đối tượng khác để giết. Để tiếp cận một tên sát nhân máu lạnh như vậy, sử dụng biến hóa thần thông là điều vô cùng cần thiết và hợp lý

Thế nhưng, thần thông biến hóa này cũng chỉ được Đức Phật sử dụng rất hạn chế như một phương tiện để hỗ trợ quá trình cảm hóagiáo hóa và giúp người chuyển hóa, chứ không hề lạm dụngMục đích rốt ráocứu cánh của Đức Phật là đưa Angulimāla ra khỏi quỹ đạo sống tội lỗità kiến, mê si và đặt người này vào con đường thực hành Chánh phápĐức Phật đã tương kế tựu kế để có thể gởi bức thông điệp có tác dụng đánh động mạnh mẽ tâm thức của Angulimāla bằng câu nói “Ta đã dừng từ lâu; còn ngươi thì chưa dừng”. Đức Phật đã thành công trong việc cho người bệnh nặng uống thuốc bằng cách “cho ăn kẹo trước, bảo uống thuốc sau”; trước Ngài thể hiện thần thông, nhằm thỏa mãn lòng ham muốn hiếu kỳ của tướng cướp này, sau Ngài dùng tâm từ bi và trí tuệ để nhiếp phục Angulimāla. Nhìn cả quá trình cảm hóa này, ta thấy nhờ những lời khai tâm mở trí của Đức Phật đúng thời điểm mà một tướng cướp khát máu đã trở thành một vị Tỳ-kheo mẫu mực trong Tăng đoàn. Đây là gì mà không phải giáo hóa thần thông?

Trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sanh với mục đích giúp người chuyển mê khai ngộĐức Phật chỉ chú trọng đến giáo hóa thần thông, còn biến hóa thần thông và tha tâm thần thông, Ngài cho rằng đó là sự huyễn hóa, nguy hại và vô ích, đưa đến nhiều nguy hiểm nếu lạm dụng chúng (Tăng chi bộ kinh, chương Ba pháp, phẩm VI, kinh 60).

Thế nhưng, nếu biết kết hợp và sử dụng đúng lúc, có chừng mực thì những khả năng thần thông này có thể hỗ trợ hiệu quả trong quá trình giáo hóa, giúp người khai tâm mở trí và Đức Phật rất thành công khi làm như vậy.

Liên Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14235)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13283)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14239)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15588)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13280)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19438)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24690)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15795)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37881)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13506)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13131)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17210)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13234)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17436)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21730)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13284)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14455)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12906)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13712)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28683)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23457)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34471)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28922)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32235)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11344)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12047)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26353)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17428)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14554)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34601)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13158)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12301)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13437)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40575)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 27006)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14505)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13300)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13499)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12590)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13207)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12344)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11825)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12611)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17688)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12252)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12799)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18473)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14327)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13029)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11343)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12218)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13526)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10897)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11132)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10338)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28978)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25363)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26908)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25835)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18732)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant