Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thư Viện Quốc Hội Mỹ Đã Công Bố Một Văn Bản Quí Hiếm Từ 2.000 Năm

18 Tháng Giêng 202005:18(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ Đã Công Bố Một Văn Bản Quí Hiếm Từ 2.000 Năm

Library of Congress : A rare 2,000year old scroll about
the early years of Buddhism is made public

(THƯ VIỆN QUỐC HỘI MỸ ĐÃ CÔNG BỐ
MỘT VĂN BẢN QUÍ HIẾM TỪ 2.000 NĂM
ĐƯỢC XEM NHƯ BUỔI BÌNH MINH CỦA PHẬT GIÁO RA CÔNG CHÚNG) .

By Allen Kim  - CNN - Trịnh Khải Hoàng chuyển Việt ngữ
Updated 0004 GMT (0804 HKT) July 30, 2019
A portion of the Gandhara scroll from the Library of Congress.

 
cay bach duong

(Nguồn CNN) Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta có thêm một cái nhìn thoáng qua về Lịch Sử Phật Giáo  trong những năm hình thành sớm nhất .  Cuộn sách có nguồn gốc ở Gandhara thuộc một khu vực Phật Giáo cổ ở miền bắc Afghanistan và Pakistan.  Chỉ có vài trăm bản thảo Gandharan được các học giả trên toàn thế giới biết đến, và mỗi bản đều quan trọng để hiểu được sự phát triển ban đầu của Văn Học Phật Giáo.  Với phương pháp phân tích ngôn ngữ, các học giả nghiên cứu các bản thảo này để lập biểu đồ về sự truyền bá của Phật Giáo khắp châu Á. Bản văn Gandhara thuật lại bởi Siddhartha Gautama  Sakya Muni (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) nhà sáng lập Phật Giáo và kể câu chuyện về 13 vị Phật  trước Ngài, sự xuất hiện của chính Ngài và thọ ký về một vị Phật tương lai. Đức Phật giảng thuyết về mỗi vị Phật sống được bao lâu, tầng lớp xã hội mà mỗi vị Phật được sinh ra và thời gian giáo hoá  đều được ghi chép trong văn bản cổ này .

 

Ông Jonathan Loar - Quản Thủ Thư Viện Quốc Hội Mỹ cũng  là thủ thư tham khảo tại Phân Khu Châu Á tại Thư Viện cho biết trong một tuyên bố nói với phóng viên CNN: "Cuộn sách được bảo quản rất tốt nhờ vào công việc của những người bảo quản Thư Viện, nhưng nó vẫn rất mỏng manh !  Đây là một đặc  phẩm độc đáo, bởi vì nó rất cũ so với các bản thảo tương tự và như vậy, nó mang lại cho chúng ta về mặt Lịch Sử, tương đối gần với thời đại của Đức Phật Sakya Muni  và hiện tại thư viện giữ lại được gần 80% văn bản gốc, chỉ thiếu phần đầu và phần cuối. Hầu hết các cuộn Gandharan khác được các học giả biết đến đều rời rạc hơn…Tôi muốn tìm cách chia xẻ tài liệu quí hiếm vô cùng độc đáo này với công chúng … Được mua vào năm 2003 từ một nhà sưu tập tư nhân, cuộn giấy là một trong những mảnh phức tạp và dễ vỡ nhất mà Thư Viện Quốc Hội đã từng bảo quản. Các chuyên viên bảo quản tài liệu thư khố, phải mất vài năm khảo sát và nghiên cứu mới phát minh ra phương pháp “điều trị” và họ đã thực hành các kỹ thuật không kiểm soát trên miếng thuốc lá xì gà khô. Việc nghiên cứu và bảo quản văn bản cổ này sẽ không bao giờ có thể làm được nếu không có các điều kiện tối ưu dành cho việc bảo tồn văn bản được lưu trữ… Có  một lý do là các cuộn giấy Gandharan, giống như cuộn cổ thư này tại Thư Viện Quốc Hội, trước  kia từ xa xưa thường được chôn trong các bình đất nung và được đặt trong một bảo tháp, cấu trúc hình mái vòm thường chứa các văn bản hoặc thánh tích của Phật Giáo và còn  nguyên nhân khác nữa, là khí hậu tương đối cao, khô cằn của vùng Gandharan giúp bảo tồn các vật liệu như bản thảo trên vỏ cây bạch dương này . Mặc dù bản thảo quá mỏng manh để hiển thị công khai, nhưng bằng phương pháp chụp ảnh kỹ thuật số với độ phân giải cao thì Văn Bản Cuộn Gandhara của Thư Viện có thể chia xẻ  phần Lịch Sử quan trọng này với công chúng…”.


Tóm lược: Chứa thông tin về cuộc đời của mười lăm Phật: Dpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni và Maitreya (8 Vị theo Nikaya) . Cuộn sách đưa ra dự đoán của chư vị cổ Phật giáo thuyết về tương lai của Śākya Muni sẽ thành Phật, bốn khóa đào tạo của đức Phật Sakya Muni dưới các vị Phật khác; tuổi thọ của họ; những đời họ sống; tầng lớp xã hội nơi họ được sinh ra; hội chúng của các môn đệ; và thời lượng giảng dạy của họ.
 Vương quốc cổ đại Gandhara (ngày nay là Afghanistan và Pakistan) được xem là nguồn gốc của các bản thảo Phật Giáo lâu đời nhất trên thế giới, cũng như các bản thảo cổ nhất từ ​​Nam Á tồn tại. Được mua vào năm 2003, Gandhara của Thư Viện có niên đại khoảng giữa thế kỷ thứ nhất BCE và thế kỷ thứ nhất CE. Ngôn ngữ của nó là Gandhari, một từ phái sinh của tiếng Phạn, và chữ viết có tên là Kharoshthi. Các học giả đã gọi một cách không chính thức cuốn sách này là Bahubuddha Sutra, hay “The Many Buddhas Sutra”, vì nó giống với một văn bản có cùng tên. trong tiếng Phạn. Cuộn sách nói về cuộc đời của mười lăm vị Phật. Bản văn được thuật lại bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa ra những tiểu sử rất ngắn về mười ba vị Phật trước ngài, sau đó là sự ra đời và xuất hiện của Ngài, và kết thúc bằng sự thọ ký về tương lai của vị phật Maitreya (Phật Di Lặc). Các tiểu sử chứa thông tin khác, chẳng hạn như mỗi vị Phật sống được bao lâu, những vị Phật tiên đoán sự xuất hiện của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xã hộiĐức Phật được sinh ra, và giáo lý của ngài tồn tại được bao lâu .


- Được cung cấp bởi nhân viên Thư Viện Quốc Hội.

- Xuất bản: Gandhara khoảng thế kỷ 1 trước Công nguyên - khoảng thế kỷ thứ nhất A.D.
- Tiêu đề:  Chư Phật.

- Công trình sớm đến 1800.

- Bản thảo, Kharoṣṭhi - Washington D.C.

- Bản thảo, Prakrit - Washington D.C.

 . Ghi chú:  Tiêu đề nghĩ diễn ra từ Catalog:

- Cuộn này trên vỏ cây bạch dương có nguồn gốc từ vùng Phật Giáo cổ xưa của Gandhara (Pakistan và Afghanistan ngày nay) và là một trong những bản thảo Phật giáo lâu đời nhất được biết đến. Nó được viết bằng ngôn ngữ Gandhari Prakrit trong kịch bản Kharoshthi, được đọc từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Bởi vì cuộn chứa chữ viết ở cả hai mặt, người ghi chép sẽ lật cuộn theo chiều dọc để tiếp tục viết trên ngược lại.

- Bản thảo có sáu mảnh lớn và khoảng 130 mảnh nhỏ hơn; Hầu hết hoàn thành với sự khởi đầu và kết thúc còn thiếu. Các mảnh vỡ được lưu trữ bằng phẳng trong hai hộp vỏ sò, có kích thước 73,5 x 45 x 7,8 cm. Một hộp chứa sáu mảnh lớn và hộp còn lại chứa các mảnh nhỏ hơn.

- Hình ảnh của Văn Bản này và phản ánh số lượng, định hướng và thứ tự các mảnh vỡ và bảo quản trong vỏ thủy tinh. Trong hình ảnh của trực tiếp của sáu mảnh lớn, ba mảnh nhỏ nhất phải được xoay 180 độ để đọc cuộn.

- Được mô tả trong: Krueger, Holly H. Bảo tồn thư viện Gandhara Scroll: một quá trình hợp tác.   Nhóm Sách và Giấy hàng năm, 27 (2008).

- Được mô tả trong: Salomon, Richard. "Một vị Phật, 15 vị Phật, 1.000 vị Phật. Ban ghi ngày 15 tháng 11 năm 2018 tại Thư viện Quốc hội. Thời gian chạy: 75 phút. Trung bình:1 cuộn.

Số điện thoại / Địa điểm

BQ4670 .G36

Thư viện số kiểm soát của Quốc hội

2018305008

Tư vấn truy cập:

Giới hạn truy cập; Chất liệu cực kỳ dễ vỡ; vui lòng sử dụng hình ảnh kỹ thuật số trực tuyến.

Ngôn ngữ Prakrit.

 

Định dạng trực tuyến: Sự miêu tả:

Chứa thông tin về cuộc đời sống của mười lăm (15) vị  Phật: Dpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni và Maitreya. Cuộn sách đưa ra dự đoán của chư Phật về tương lai của Śākyamuni sắp thành Phật; bốn khóa đào tạo của Ngài dưới các vị Phật khác; tuổi thọ của họ; những đời họ sống; tầng lớp xã hội mà họ được sinh ra; hội chúng của các môn đệ; và thời lượng giảng dạy của họ. "Vương quốc cổ đại Gandhara (ngày nay là Afghanistan và Pakistan) là nguồn gốc của các bản thảo Phật giáo lâu đời nhất trên thế giới, cũng như các bản thảo cổ nhất từ ​​Nam Á tồn tại. Được mua vào năm 2003, Gandhara của Thư viện có niên đại khoảng giữa thế kỷ thứ nhất BCE và thế kỷ thứ nhất CE. Ngôn ngữ của nó là Gandhari, một từ phái sinh của tiếng Phạn, và chữ viết có tên là Kharoshthi. Các học giả đã gọi một cách không chính thức cuốn sách này là Bahubuddha Sutra, hay 'The Many Buddhaas Sutra', vì nó giống với một văn bản có cùng tên. trong tiếng Phạn. Cuộn sách nói về cuộc đời của mười lăm vị Phật. Bản văn được thuật lại bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa ra những tiểu sử rất ngắn về mười ba vị phật đến trước ngài, sau đó là sự ra đời và xuất hiện của Ngài là Thích Ca Mâu Ni, và kết thúc bằng sự thọ ký về tương lai của vị Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Các tiểu sử chứa thông tin khác, chẳng hạn như mỗi vị phật sống được bao lâu, mỗi vị tiên đoán sự xuất hiện cuối cùng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xã hội nào Phật được sinh ra, và giáo lý của ngài tồn tại được bao lâu”.

Được cung cấp bởi nhân viên Thư viện Quốc hội.

LCCN Permalink

https://lccn.loc.gov/2018305008

Định dạng siêu dữ liệu bổ sung

Bản ghi MARCXML

Bản ghi MODSBản ghi lõi Dublin: Library of Congress-MANUSCRIPT/MIXED MATERIAL  Gandhara scroll.
cay bach duongKinh Phật cổ viết trên vỏ cây bạch dương


(CNN)
The Library of Congress made public a rare 2,000-year-old text of early Buddhism on Monday, and it offers a glimpse into early Buddhist history during its formative years.

The scroll originated in Gandhara, an ancient Buddhist region in northern Afghanistan and Pakistan. Only a few hundred Gandharan manuscripts are known to scholars worldwide, and each is vital to understanding the early development of Buddhist literature. For instance, using linguistic analysis, scholars study these manuscripts to chart the spread of Buddhism throughout Asia.

The Gandhara text is narrated by Shakyamuni Buddha, the religious leader also known as Siddhartha Gautama, and tells the story of the 13 Buddhas who preceded him, his own emergence and the prediction of a future Buddha. Information on how long each Buddha lived, the social class they were born into and how long their teachings endured are all chronicled in the text.

 

 Buddhism Fast Facts

"This is a unique item because it is very old compared to similar manuscripts and, as such, it does bring us, historically speaking, relatively close to the lifetime of the Buddha," Jonathan Loar, reference librarian in the Asian Division at the Library of Congress, said in a statement.

The library's scroll retains nearly 80% of the original text, with only the beginning and end missing. Most other Gandharan scrolls known to scholars are more fragmentary.

"I wanted to find a way to share this incredibly unique item with the public," Loar told CNN. "The scroll is very well-preserved thanks to the work of the Library's conservators, but it is still incredibly fragile."

Purchased in 2003 from a private collector, the scroll is one of the most complicated and fragile pieces that the Library of Congress has ever treated. It took conservators several years to devise a treatment strategy, and they practiced unrolling techniques on dried-up cigars.

The treatment of the text would've never been possible if not for the unique conditions in which it was stored.

"One reason is that Gandharan scrolls, like the one at the Library of Congress, were typically buried in terra cotta jars and interred in a stupa, a dome-shaped structure often containing Buddhist texts or relics," Loar said. "Another reason is that the relatively high, arid climate of the Gandharan region helps preserve materials like manuscripts on birch bark."

Although the manuscript itself is too fragile for public display, by digitizing the text, the library is able to share this important piece of history with the public.

 

Library of Congress :MANUSCRIPT/MIXED MATERIAL: Gandhara scroll.

  Digitized scroll: Title:   Gandhara scroll.

 Summary:

 Contains information on the parallel lives of fifteen buddhas: Dīpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni [I], Tiṣya, Vipaśyin, Śikhin, Viśvabhū, Krakucchanda, Konākamuni, Kāśyapa, Śākyamuni [II] (also known as Siddhartha Gautama), and Maitreya. The scroll gives the buddhas' predictions of Śākyamuni's future coming as the Buddha; his four courses of training under the other buddhas; their lifespans; eons in which they lived; social class into which they were born; their assemblies of disciples; and duration of their teachings.

"The ancient kingdom of Gandhara (today's Afghanistan and Pakistan) is the source of the oldest Buddhist manuscripts in the world, as well as the oldest manuscripts from South Asia in existence. Acquired in 2003, the Library's Gandhara scroll roughly dates between the first century BCE and first century CE. Its language is Gandhari, a derivative of Sanskrit, and the script is called Kharoshthi. Scholars have informally called this scroll the Bahubuddha Sutra, or 'The Many Buddhas Sutra,' because it resembles a text with a similar name in Sanskrit. The scroll discusses the lives of fifteen buddhas. The text is narrated by Shakyamuni Buddha who gives very short biographies of thirteen buddhas who came before him, followed by his birth and emergence as Shakyamuni Buddha, and ending with the prediction of the future buddha, Maitreya. The biographies contain other information, such as how long each buddha lived, how each predicted the eventual appearance of Shakyamuni Buddha, what social class the buddha was born into, and how long his teachings endured"-- Provided by Library of Congress Asian Division staff.

Created / Published

[Gandhara] : [producer not identified], [approximately 1st century B.C.-approximately 1st century A.D.]

Subject Headings

-  Buddhas--Early works to 1800

-  Manuscripts, Kharoṣṭhi--Washington (D.C.)

-  Manuscripts, Prakrit--Washington (D.C.)

Notes:

-  Title devised by cataloger.

-  This scroll on birch bark originates from the ancient Buddhist region of Gandhara (Pakistan and Afghanistan today) and is one of the oldest known Buddhist manuscripts. It is written in the Gandhari Prakrit language in Kharoshthi script, which is read from top to bottom and right to left. Because the scroll contains writing on both sides, the scribe would have flipped the scroll vertically to continue writing on the verso.

-  Manuscript is in six large fragments and approximately 130 smaller fragments; mostly complete with the very beginning and end missing. Fragments are stored flat in two custom clamshell boxes measuring 73.5 x 45 x 7.8 cm. One box contains the six large fragments and the other box contains the smaller fragments.

-  Digitized images of this manuscript reflect the number, orientation, and order of fragments upon its unrolling and preservation in glass casing. In the image of the recto of the six large fragments, the three smallest fragments should be rotated 180 degrees to read the scroll.

-  Described in: Krueger, Holly H. "Conservation of the Library of Congress' Gandhara Scroll: a Collaborative Process." The Book and Paper Group annual, 27 (2008).

-  Described in: Salomon, Richard. "One Buddha, 15 Buddhas, 1,000 Buddhas.” Recorded November 15, 2018 at the Library of Congress. Running time: 75 minutes.

 

Medium:  1 scroll.

Call Number/Physical Location: BQ4670 .G36

Library of Congress Control Number: 2018305008

Access Advisory: Restricted access; material extremely fragile; please use online digital image.

Language: Prakrit Languages

Online Format:  Image

Description:  Contains information on the parallel lives of fifteen buddhas: Dīpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni [I], Tiṣya, Vipaśyin, Śikhin, Viśvabhū, Krakucchanda, Konākamuni, Kāśyapa, Śākyamuni [II] (also known as Siddhartha Gautama), and Maitreya. The scroll gives the buddhas' predictions of Śākyamuni's future coming as the Buddha; his four courses of training under the other buddhas; their lifespans; eons in which they lived; social class into which they were born; their assemblies of disciples; and duration of their teachings. "The ancient kingdom of Gandhara (today's Afghanistan and Pakistan) is the source of the oldest Buddhist manuscripts in the world, as well as the oldest manuscripts from South Asia in existence. Acquired in 2003, the Library's Gandhara scroll roughly dates between the first century BCE and first century CE. Its language is Gandhari, a derivative of Sanskrit, and the script is called Kharoshthi. Scholars have informally called this scroll the Bahubuddha Sutra, or 'The Many Buddhas Sutra,' because it resembles a text with a similar name in Sanskrit. The scroll discusses the lives of fifteen buddhas. The text is narrated by Shakyamuni Buddha who gives very short biographies of thirteen buddhas who came before him, followed by his birth and emergence as Shakyamuni Buddha, and ending with the prediction of the future buddha, Maitreya. The biographies contain other information, such as how long each buddha lived, how each predicted the eventual appearance of Shakyamuni Buddha, what social class the buddha was born into, and how long his teachings endured"-- Provided by Library of Congress Asian Division staff.

LCCN Permalink
https://lccn.loc.gov/2018305008
Additional Metadata Formats
MARCXML Record - MODS Record -  Dublin Core Record.

IIIF Presentation Manifest:  Manifest (JSON/LD)
Part of :Asian Division (7,733)
Library of Congress Online Catalog (1,031,391)
Format : Manuscript/Mixed Material
Location: Washington D.C.
Language: Prakrit Languages
Subjects: Buddhas
Early Works to 1800 - Manuscripts, Kharoṣṭhi - Manuscripts, Prakrit - Washington (D.C.)
Featured in ; Library of Congress Blog
Now Online! The Gandhara Scroll, a Rare 2,000-Year-Old Text of Early Buddhism
Related Items :Conservation description from Book and Paper Group annual: Webcast video of "One Buddha, 15 Buddhas, 1,000 Buddhas":


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1582)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1476)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1335)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1389)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1716)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1981)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2035)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1477)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1564)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1393)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1411)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1733)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2646)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1409)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1569)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1447)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1436)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1523)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2206)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1554)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1515)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1540)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1420)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1676)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1718)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2394)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1966)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1684)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1764)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1624)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1958)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1689)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1445)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1733)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1585)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1555)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1340)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1303)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant