Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

29 Tháng Giêng 202018:00(Xem: 5305)
Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

Ý NGHĨA TRỌNG ĐẠI CỦA
THỦ BẢN KINH PHẬT VIẾT TRÊN VỎ CÂY BÔ-LA Ở GANDHARA


Vũ Thế Ngọc


Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan. Nhưng phải cho đến tháng Chín năm 1994, sau khi loạn quân Taliban phá hủy hai ngôi tượng đại Phật ở Bamiyan Gandhāra, một vị khách vô danh mới gửi ba khạp đất nung chứa 27 cuộn kinh Phật viết bằng văn tự Kharosthi trên vỏ cây bhoja-patra cho Thư viện Anh Quốc, giới nghiên cứu Phật giáo mới khám phá ra sự quan trọng của các thủ bản này. Liên thủ Thư viện Anh và Đại học Washington nhanh chóng thành lậpDự án Nghiên cứu Nguyên cảo Kinh văn Phật giáo Thời Sơ khai” (The Bristish Library/ University of Washington Early Buddhist Manuscripts Poject - EBMP) với mục đích nghiên cứu nguồn văn liệu cổ quí báu viết bằng văn tự Kharosthi này. Không chỉ nghiên cứu và xuất bản, EBMP còn đào tạo cả một lớp nghiên cứu sinh và hậu tiến sĩ để sửa soạn tiếp nối cho một chương trình nghiên cứu dài hạn. Sau hai mươi năm hoạt động, EBMP đã trở nên một địa chỉ uy tín mà các học giả thế giới có thể cộng tác và chia sẻ nỗ lực nghiên cứu về nguyên cảo Phật giáo cổ đại. Đầu tiên là cùng chia sẻ nguồn tài liệu về kinh Phật ở Gandhāra viết bằng cổ tự Kharosthi mà nhiều năm trước đã tản mác khắp thế giới. Tổng kết, ngoài Sưu tập Thư viện Anh, hiện nay chúng ta đang có năm sưu tập khác mở cửa cho các học giả nghiên cứu là:

1.Sưu tập Senior

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở GandharaAncient Buddhist Scrolls from Gandhara -
The British Library Kharosthi Fragments
(Gandharan Buddhist Texts)

The Senior Collection là sưu tập của nhà nghiên cứu người Anh tên là Robert Senior. So với Sưu tập Thư viện Anh thì sưu tập này tuy cũng là bằng vỏ cây bu-lô và bỏ trong khạp đất nung, nhưng mới hơn. Salomon cho biết nó được viết muộn hơn sưu tập Thư viện Luân Đôn đôi chút (nghĩa là vào khoảng cuối thế kỷ thứ nhất)1 . Tuy nhiên điểm tốt của sưu tập này là thay vì gồm nhiều đoạn kinh, Sưu tập Senior gồm nguyên vẹn kinh.

Senior có hơn 20 văn bản vỏ cây ngôn ngữ Gandhāra cũng viết bằng văn tự Kharosthi bỏ trong khạp đất nung và có lẽ được chôn trong cổ tự gần với Sưu tập Thư viện Anh. Salomon giới thiệu “Trong khi Sưu tập Thư viện Anh viết bằng nhiều lối văn tự do và do nhiều người viết thì Sưu tập Senior dường như chỉ dùng một bút pháp vì chỉ do một người viết. Nếu Sưu tập Thư viện Anh bị phân chia thành nhiều mảng văn và dường như không hoàn toàn, thì văn bản Senior cho thấy đã hoàn hảo trước khi đem chôn giấu”2 .

Cuối cùng và quan trọng nhất là Salomon báo cáo rằng phần lớn các văn liệu trong Senior giống như đã có trong kinh điển Tương ưng bộ (Saṃyutta Nikāya) của Theravāda và Tạp A-hàm của Hán tạng. Điều này cho thấy giả thuyết Tạp A-hàm của Hán tạng không dịch từ Sanskrit như nhiều người nghĩ trước đây mà từ ngôn ngữ địa phương gọi là Gandhārī Prākrit (nên nhớ văn tự Brahmi và Kharosthi được dùng để viết ngôn ngữ phổ thông Prākrit vùng Gandhāra (gọi là Gandhārī Prākrit) trước rồi sau đó mới được dùng để viết Sanskrit - suy ra nhiều văn bản Hán tạng có thể cổ hơn Pāli và Sanskrit vì Pāli cùng thời với Sanskrit nhưng sau thời vua A-dục (trị vì 272-236 B.C.) người ta mới dùng văn tự Kharosthi và Brahmi để viết Sanskrit và Pāli3 .

2. Sưu tập Schøyen

The Schøyen Collection nguyên là một sưu tập của Martin Schøyen vốn là một nhà sưu tầm người Thụy Điển gồm một số kinh Phật viết trên vỏ cây, lá bối và da thuộc được định niên đại từ thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ tám, xuất thổ từ các hang động vùng Bamiyan Gandhāra. Số kinh Phật này Schøyen mua được phần lớn, phần còn lại do các nhà sưu tầm khác người Nhật mua được. Ngôn ngữ của kinh là tiếng phổ thông Gandhāra (Gandhārī Prākrit) nhưng còn có thêm một phần kinh văn hệ Sanskrit thuộc Phật giáo Đại thừa. Đa phần sưu tập này viết bằng chữ Brahmi chỉ có một phần viết bằng chữ Kharosthi (chữ Brahmi cùng thời với chữ Kharosthi và là tiền thân của chữ Tất-đàn/ Siddham) 4 .

Phần đặc biệt của sưu tập Schøyen là trong những phần viết bằng văn tự Kharosthi được nhận diện thuộc về Pháp Tạng bộ (Dharmaguptaka) viết về giáo pháp Lục Ba-la-mật (ṣādpāramitā) là giáo pháp căn bản của hàng Bồ-tát của Phật giáo Đại thừa5 . Hiện nay các tông môn Đại thừa đang học Tứ phần luật (四分律) - do Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm dịch - thì đó cũng là kinh điển của Pháp Tạng bộ.

3. Sưu tập của Đại học Washington

Sau khi thành lập “Dự án Nghiên cứu Nguyên cảo Kinh văn Phật giáo Thời Sơ khai” (EBMP), Đại học Washington cũng cố gắng tìm mua thêm tài liệu cổ thư tịch Phật giáo cho dự án này. Đến năm 2002 Thư viện Đại học Washington cũng mua được một sưu tập kinh Phật viết trên vỏ cây bu-lô viết vào khoảng thế kỷ thứ nhất đến thứ hai. Đây là kinh luận của các tự viện thuộc thời kỳ truyền thống 18 bộ phái. Nội dung sưu tập này là các luận thảo của A-tỳ-đàm giảng về Khổ (Duhkha) trong Tứ diệu đế.

4. Sưu tập của Thư viện Quốc hội


Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara 1A portion of the Gandhara scroll
from the Library of Congress.

Năm 2003, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (Library of Congress) cũng mua được một cuộn kinh Phật bằng vỏ cây bu-lô nhưng đã bị bẻ nhỏ, bỏ trong một hộp đựng bút máy cho nên đã mất phần đầu và phần cuối mà chỉ còn độ 80 phần trăm nội dung - tài liệu được bẻ nhỏ chắc để giấu trong thời gian khu vực Gandhāra đang là một thị trường chợ đen của những nhà khảo cổ quốc tế lẫn với giới kinh doanh đồ cổ và các người đào trộm đồ cổ. Đây là bộ kinh có tên là Bahubuddha Sutra, một kinh giống như “kinh Đại sự” (Mahāvastu) nói về tiền kiếp của Đức Phật cũng như đường lối tu tập Thập địa Bồ-tát thuộc kinh điển Xuất Thế bộ (Lokattara-vāda) một trong 18 bộ phái của thời kỳ A-tỳ-đàm. Nội dung thủ cảo là giới thiệu về lịch sử các giáo luật của Luật tạng (Vinaya). Phần còn lại là các phần giống như tiểu kinh Bản sinh (Jātaka) 6 giảng về Nghiệp (Karma) và các tiền kiếp của Đức Phật có trong Tiểu bộtiểu kinh Thí dụ (Avadana). Đây là kinh quan trọng coi như gạch nối Tiểu thừaĐại thừa.

5. Sưu tập “Split”

Một sưu tập kinh Phật viết trên vỏ cây bu-lô bằng văn tự Khagosthi rất quan trọng khác gọi là “Split Collection”. Đây là một tập hợp kinh Phật quan trọng liên quan đến sơ kỳ Phật giáo Đại thừa nhưng chưa được thu thập toàn vẹn vì một số phần hãy còn ở trong tay một vài cá nhân sưu tầm chưa biết tên. Theo Harry Falk7 người duy nhất viết về sưu tập này thì tài liệu này từng được thấy ở Peshawar Gandhāra vào năm 2004 nhưng sau đó mất dấu người sở hữu ngoài phần có được thuộc về cơ quan chính quyền. Cứ theo Falk thì sưu tập này được tìm thấy ở trong một hang đá vùng Gandhāra, biên giới Pakistan và Afghanistan.

Năm 2012 Harry Falk và Seishi Karashima lấy từ sưu tập này, biên tập và cho xuất bản thủ bản quyển kinh Bát-nhã rất quen thuộc của Đại thừa là “Bát-nhã Bát thiên tụng” (Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra) 8 . Theo chứng nghiệm carbon thì thủ bản kinh này được chép rất sớm, khoảng năm 75, và như thế sẽ là bản kinh Bát-nhã cổ nhất mà chúng ta có thể thấy được. Nội dung của nó tương tự với bản Hán dịch của Chi-lâu-ca-sấm (Lokaksema)9 dịch khoảng năm 180. So sánh bản kinh vỏ cây này với bản kinh Sanskrit truyền thống quen thuộc có trong các Đại tạng thì chúng ta có thể thấy rằng bản kinh truyền thống chỉ là bản dịch của kinh này vì bằng chứng là có nhiều từ và cách biểu tỏ trong bản truyền thống không có trong ngôn ngữ Gandhāra. Và thủ bản viết trên vỏ cây này lại là bản chép lại từ một văn bản sớm hơn nữa, có thể từ thế kỷ thứ hai trước dương lịch.

Các sưu tập Kharosthi đã khai thác

Đến đây chúng ta cũng cần nhắc lại những sưu tập về văn tự Kharosthi nổi tiếng trong quá khứ nhưng có niên đại muộn hơn sáu sưu tập mà chúng ta giới thiệu ở trên. Thứ nhất là sưu tập kinh điển Bát-nhã được khám phá ở Gilgit, Gandhāra (Gilgit Buddhist Manuscripts) do Raghu Vira và Lokesh Chandra biên tập xuất bản thời 1959-197410, đã được Edward Conze giới thiệu trong “The Gilgit Manuscript of the Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā” (series Orientale Roma XXVI, Ismeo Rome 1960)11 và tôi đã lặp lại trong các nghiên cứu về Long Thọ. Thứ hai là thủ bản kinh Pháp cú (Dhammapada) của ngôn ngữ phổ thông Gandhāra (Gandhārī Prākrit) cũng viết bằng văn tự Kharosthi. Bản kinh Pháp cú này rất quan trọng và chịu số phận khá long đong nên cũng cần vắn tắt ở đây. Trước hết một phần thủ cảo “Gandhārī Dharmapada” được nhà du hành người Pháp là Dutreuit de Rhins tìm thấy vào năm 1892. Cũng trong khoảng thời gian này viên lãnh sự người Nga cũng mua được một số mảnh khác. Trải qua rất nhiều nghiên cứu riêng biệt, đến thập niên 1960 giáo sư Sanskrit của Đại học London là John Borough mới tổng hợp cả hai văn bản và cho xuất bản dưới tên là The Gandhārī Dharmapada cũng do Oxford University xuất bản năm 1962.

Giá trị thủ bản kinh Phật ở Gandhara

Sau hai mươi năm hoạt động, giáo sư Richard Salomon đã điều hành xuất sắc tổ chức “Dự án Nghiên cứu Nguyên cảo Kinh văn Phật giáo Thời Sơ khai” (EBMP). Là một nhà nghiên cứu, Richard Salomon và các cộng sự đã công bố những tác phẩm nghiên cứu kinh điển quan trọng về chủ đề này lấy từ EBMP. Là một nhà quản trị giỏi, Salomon đã điều hành một trung tâm có tầm vóc quốc tế một cách thành công, vừa về liên hệ chặt chẽ giữa các nhà nghiên cứu khắp thế giới, vừa có các quan hệ tốt với các mạnh thường quân và tài trợ cho chương trình. Quan trọng nhất là ông cũng có viễn kiến nhìn xa vào tương lai, để không quên nhiệm vụ đào tạo những chuyên gia kế thừa cho một ngành học thuật hết sức độc đáo nhưng cũng rất giới hạnnghiên cứu về văn bản cổ Phật giáo bằng chữ Kharosthi. Trong hai mươi năm, Salomon cũng đã đào tạo được hai lớp sinh viên tiến sĩhậu tiến sĩ chuẩn bị cho tương lai ấy12. Năm 1999 Salomon cho xuất bản quyển sách đầu tiên giới thiệu tổng quát về mục đíchchương trình hoạt động có tên là “Ancient Buddhist Scrolls from Gandhāra: The British Library Kharoṣṭhī Fragments”. Hai mươi năm sau (năm 2018) Salomon cho giới thiệu quyển thứ hai, tường trình thành tựu sau hai mươi năm miệt mài làm việc “The Buddhist Literature of Ancient Gandhāra: An Introduction with Selected Translations”. Sách được đại đa số độc giả lẫn giới nghiên cứu nhiệt liệt hoan nghênhtán thán thành quả tốt đẹp của chương trình EBMP. Tuy nhiên vẫn có những phê bình. Không phải là những phê bình cá nhân hay về nội dung có vấn đề của các tác phẩm đã được xuất bản. Mà đây có thể còn còn là phê bình của những người quá thiện chí đòi hỏi EBMP phải làm nhiều và sâu hơn nữa. Sự phê bình của những người dù thán phục nhưng vẫn phê phán vì không thấy được sự quan trọng của nhiều vấn đề khó khăn của những nhà nghiên cứu trong cuộc. Ở đây chúng ta có thể đặt lại câu hỏi và tìm cách trả lời một cách tích cực hơn. Đó là đề tài “Sự quan trọng của đề án nguyên cảo kinh Phật Gandhāra” để trả lời phê phán mà có lẽ hàm ngụ rằng Salomon đặt trọng tâm vào việc dịch thuật mà không đặc biệt quan tâm về tầm mức quan trọng của đề án.

Tôi cần nói ngay ở đây rằng vấn đề không phải là sai lầm hay là trách nhiệm của Salomon. Ông đã làm nhiệm vụ của ông, như một người làm bếp, món ăn đã làm xong. Ăn như thế nào, thêm gia vị nào hay ăn cùng với thứ gì là phần của người sử dụng các tài liệu mà ông và các cộng sự đã hoàn thành. Tuy nhiên tôi nghĩ Salomon và những nhà nghiên cứu cộng sự sẽ không dừng lại công việc của những người sưu tầm cổ vật. Họ biết sự quan trọng đó và sớm muộn cũng tiến đến vấn đề khai thác sâu hơn và rộng hơn.

Trước hết, hầu như tất cả các nhà nghiên cứu về Phật giáo Đại thừa đều cho rằng không có tài liệu về giai đoạn khởi phát của kinh điển Đại thừa. Cho đến thế kỷ XX thì giới nghiên cứu đã thấy được mối liên hệ giữa Tiểu thừaĐại thừa trong một số kinh. Luận án năm 1962 của Hòa thượng Thích Minh ChâuSo sánh kinh Trung Bộ A-hàm Hán ngữ và kinh Trung bộ Pāli” (The Chinese Madhyana Āgama and the Pāli Majjhima Nikāya: A Comparative Study); rồi nghiên cứu của học giả Analayo “Nghiên cứu tỷ giảo Trung bộ kinh” (A Comparative Study of the Majjhima-nikaya) năm 2011; cả hai bộ sách Tạp A-hàm Hội biên hay Nguyên thủy Phật giáo Thánh điển chi Tập thành của Pháp sư Ấn Thuận và luận văn của tôi về sự liên hệ giữa kinh Bát-nhã và A-tì-đàm (Abhidharma and the Prajñā-pāramitā Sūtras)13 chính là đại biểu điển hình cho hướng nghiên cứu tỷ giảo văn bản.

Tuy nhiên, ngày nay với các thủ bản chữ Kharosthi này thì chúng ta lần đầu tiên có những chứng cứ văn liệu cụ thể để chứng minh rằng một số kinh luận Phật giáo Hán tạng đã được dịch thẳng từ văn bản Kharosthi chứ không phải thông qua từ Sanskrit (Phạn ngữ). Cho nên ở đây sự quan trọng trong việc khai thác các tài liệu văn bản Kharosthi sẽ giúp cho chúng ta nghiên cứu sâu hơn những nghiên cứu của Thích Minh Châu, Analayo và Ấn Thuận về ba lãnh vực có tính liên hoàn: (1) Nghiên cứu văn liệu Phật giáo “tiền Sanskrit” nghĩa là vào những văn kiện, thủ cảo đầu tiên của kinh Phật được viết xuống bằng văn tự trước cả khi dùng để viết Sanskrit hay Pāli14; (2) Nghiên cứu những bản kinh Hán tự dịch thẳng từ văn tự Kharosthi (hay qua ngôn ngữ truyền khẩu có trước thời văn tự); (3) Nghiên cứu sự phát triển của kinh điển Phật giáo Đại thừa (trên văn tự cụ thể khác hơn là lý luận hay huyền thoại hoặc đức tin như trước đây). Ba bước nghiên cứu này tôi nghĩ Salomon và các nhà nghiên cứu Phật học không phải không nghĩ đến.

Cũng nên chú ý ở đây, như đã giới thiệu, ngoài Sưu tập Thư viện Anh còn có nhiều sưu tập khác về văn liệu Gandhāra đang nằm rải rác tại nhiều thư viện và bảo tàng viện lớn trên khắp thế giới như sáu sưu tập mà tôi vừa giới thiệu ở trên (trong các sưu tầm này vừa có những thủ cảo còn sớm hơn Sưu tập Thư viện Anh, vừa có liên quan nhiều hơn với kinh điển Đại thừa). Cho nên học giả quốc tế hiện nay không chỉ giới hạn trong Sưu tập Thư viện Anh đang được Đại học Washington tập trung nghiên cứu mà còn nghiên cứu các sưu tập khác như có thể thấy trong hai tường trình “Kharosthi Manuscript Fragments in the Pelliot Collection, Bibliotheque Nationale de France” (Những phần của văn bản Kharosthi có trong Sưu tập Pelliot ở Thư viện Quốc gia Pháp ) của Salomon đăng trong Bulletin d’ Études Indiennes 16, 1998 và “Fragments of a Gandhāri Version of the Mahaparinirvana Sutra in the Schøyen Collection” (Những phần của thủ cảo Gandhāra kinh Đại Bát-niết-bàn có trong Sưu tập Schøyen) của Mark Allon và Salomon có in trong volume 1 của tuyển tập Buddhist Manuscripts in the Schøyen Collection, Oslo Hemles Publishing. Cho nên dù tôi chưa được đọc nội dung, nhưng đọc tên các sách sẽ được xuất bản của GBT như Mahāyāna Sūtras in Gāndhārī in the Schøyen Collection: The Bodhisattvapiṭaka- and Sarvapuṇyasamuccaya-sūtras (Kinh Đại thừa ở Gandhāra trong Sưu tập Schøyen); The Gāndhārī Bahubuddha-sūtra: The Library of Congress Scroll (Kinh Chư-Phật trong Sưu tập Gandhāra của Thư viện Quốc hội) thì thấy rằng có lẽ họ đang đi theo đường hướng ba bước nghiên cứu mà tôi vừa phác họa ở trên.

(*) Xin nhắc lại kinh Phật Sanskrit và kinh Phật Pāli chỉ xuất hiện sau thời gian kinh Phật Māgadhī được viết bằng văn tự Kharosthi, điển hình như thời vua A-dục (làm vua 268-232 trước dương lịch) người ta chưa viết kinh Phật bằng văn tự. Chữ trên các Trụ Pháp của vua A-dục (Edicts of Asoka) có hai điểm quan trọng là: Thứ nhất, chữ Kharosthi hay chữ Brahmi trên Trụ Pháp dùng để viết ngôn ngữ Māgadhī chứ không phải viết ngôn ngữ Sanskrit. Thứ hai, các Trụ Pháp dù có dùng một hai danh từ Phật giáo (như “ưu bà tắc” upāsaka) và có nhắc đến tên Đức Phật “Thích-ca Mâu-ni” nhưng chưa bao giờ nói đến giáo lý Phật giáo hay nhắc đến kinh Phật. Từ triều đại Quí Sương (50-300) người ta mới thường dùng văn tự để viết kinh Phật Sanskrit. Cho nên giáo sư Salomon, trong tuyên bố chương trình nghiên cứu về “văn liệu kinh Phật thời tối cổ” (EBMP) của Đại học Washington kết luận “Sự thật, văn bản đầu tiên kinh Phật được giao truyền ra ngoài Ấn Độ chính là những cuộn vỏ cây giống như những tài liệu mà EBMP đang nghiên cứu”15.

Tóm lại, cho rằng Salomon hay các học giả cộng sự không chú ý nghiên cứu về tầm quan trọng của các thủ bản Kharosthi thì chỉ là các phê bình quá sớm của những người ao ước muốn được biết rõ về nguồn gốc kinh bản Phật điển Đại thừa mà tôi đã trình bày trong sách “Kinh Phật: Nguồn gốc và Phát triển”.

Chú thích:
1. Salomon, Richard),  “The Senior Manuscripts: Another Collection of Gandhāran Buddhist Scrolls”,  Journal of the American Oriental Society,  123, 2003, tr.78. 2. Ibid.
3. Xem phần viết về ngôn ngữ Kharosthi và Brahmi.
4. Chữ Brahmi cùng thời với chữ Kharosthi và là tiền thân của chữ Tất-đàn (Siddham). Kinh luận Phạn văn của Cưu-ma-la-thập (344-413) dùng thường viết bằng Brahmi, kinh luận Huyền Trang (601-664) mang về thường là Phạn văn viết bằng chữ Tất-đàn.
5. Olivelle, Patrick,  Between the Empires: Society in India 300 BCE to 400 CE,  Oxford University Press, 2006, tr.356.
6. Chú thích về Jataka, Thượng Tọa bộ xem Trường bộ kinh Digha Nikāya (DN 19), Trung bộ kinh Majjhima Nikāya (MN 26, MN 36). Đại Chúng bộ (Mahāsāṃghika) xem chú giảng về Mahāvastu.
7. Falk, Harry, “The ‘Split’ Collection of Kharoṣṭhī Text”. Annual Report of the International Research Institute for Advanced Buddhology XIV (2011), tr.13-23 (Có thể xem online).
8. Falk, Harry và Seishi Karashima, “A fi rst century Prajñāpāramitā manuscript from Gandhāra - parivarta 1” (Texts from the Split Collection 1).  Annual Report of the International Research Institute for Advanced Buddhology XV (2012), tr.19-61 (Có thể xem online).
9. Chi-lâu-ca-sấm là Lâu-ca-sấm (Lokaraksa) người Nguyệt Chi (Scythian) là nhân vật trung tâm khi nghiên cứu về giai đoạn sơ khởi của Đại thừa trong nghiên cứu của tôi về sự liên hệ giữa kinh Bát-nhã và A-tỳ-đàm (Abhidharma and the Prajñāpāramitā Sūtras).
10. Sách tái bản và bổ sung năm 1995 gồm 3 tập lớn do Satguru, Delhi xuất bản.
11. Aṣṭasāhasrikā Prajñā-pāramitā “Bát-nhã Bát thiên tụng 8.000 kệ” tức là Tiểu phẩm Bátnhã Ba-la-mật-đa kinh 小品般若波羅蜜多經 do Chilâu-ca-sấm (Lokaksha) dịch từ năm 180 dưới tên là Đạo hành Bát-nhã kinh (T.227), La-thập (Kumārajīva) dịch lại năm 402, Huyền Trang dịch lại năm 660.
12. Và còn tạo nên một “phong trào học thuật” mang tên là “Câu lạc bộ văn học Gandhara Kharosthi” đang soạn bộ từ điển chuyên ngành gọi là “Từ điển Kharosthi”.
13. Bản tiếng Việt chưa xuất bản.
14. Xin nhắc lại Sanskrit và Pāli đều là “ngôn ngữ nói” (speaking languages) chứ không phải “văn tự” (written languages). Ngày trước khi muốn viết Sanskrit hay Pāli người ta phải dùng văn tự Kharosthi hay Brahmi - ngày nay dùng văn tự Devanāgari.
15. “In fact, the fi rst Buddhist books to travel outside of India must have been Gandhāran birch bark scrolls very similar to the ones the EBMP is now studying”. The University of Washington - Early Buddhist Manuscripts Project.

Vũ Thế Ngọc
Văn Hóa Phật Giáo số 336 ngày 01-01-2020 


Xem thêm:
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm được xem như buổi bình minh của Phật Giáo ra công chúng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1335)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1556)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1689)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1664)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1051)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1539)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1539)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1705)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1971)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1564)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1405)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1583)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1173)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1305)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1314)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1723)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1673)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3059)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1856)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1393)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1240)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1304)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1445)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1344)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1945)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1711)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1915)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1846)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2422)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1807)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2168)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2275)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2341)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1883)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1993)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2060)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1994)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2639)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1972)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1922)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1977)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1932)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2207)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2357)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2023)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2140)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1908)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1960)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2461)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2362)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4100)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2532)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3242)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2506)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2081)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1823)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3337)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2383)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant