Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

07 Tháng Tám 202013:58(Xem: 4830)
Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

Thích Trung Định

Nguyên Tắc Để Được Thành Phật

Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần); đặc biệt vào triều đại nhà Đường thường được sử dụng trong tài liệu tham khảo về nguồn gốc của Phật giáo Ấn Độ.

Theo quan điểm của người Nhật, thế giới cổ đại duy chỉ tồn tại có ba nước mà họ chỉ định là ba vương quốc cõi trời, đó là Nhật Bản (Yamoto), Trung Quốc (Zhongguo), và Ấn Độ (Tenjiku).

Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mạivăn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của mình. Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáoPhật giáo, Jaina giáo và Sikh giáo.

Vào thời nhà Đường Phật giáo phát triển mạnh. Những tinh hoa của giáo lý Phật giáo đều nở rộ trong thời đại này. Mà Phật giáo lại xuất phát từ Ấn Độ, nên hầu như mọi người Trung Quốc đều ngưỡng mộ đất nước đã sinh ra bậc Thầy tinh thần vĩ đại của nhân loại đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta cũng thấy rất rõ thiện chí này trong tư tưởng của Huyền Trang đại sư. Ngài luôn nghĩ rằng, lời dạy của đức Phật còn nguyên vẹn thì chỉ có ở Ấn Độ. Chính suy nghĩ này đã thúc đẩy ngài lên đường Tây du để thỉnh kinh. Và đã diễn ra cuộc thỉnh kinh vĩ đại vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Phật giáo. Trong các thư tịch Trung Quốc, thời nhà Hán gọi khu vực là “Thân Độc” (身毒), hay “Thiên Trúc” (天竺). Tên gọi Ấn Độ (tiếng Trung: 印度; bính âm: Yìndù) xuất hiện lần đầu trong “Đại Đường Tây Vực ký” của cao tăng Huyền Trang đời nhà Đường. Trong bộ sách này cụm từ “Tây Trúc” hay “Thiên Trúc” được ngài Huyền Trang sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

Đối với người Nhật Bản, Ấn Độ được biết đến như Thiên Trúc Tenjiku vì là nơi sinh ra Đức Phật, một bậc thầy vĩ đại của trời, người. Mặc dù người Nhật đã có một tôn giáo bản địa gọi là “Thần đạo”, nhưng họ rất ấn tượng với triết lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong Shinto, kami được định nghĩa trong tiếng Anh là tinh thần tinh chất hay vị thần được liên kết với nhiều hình thức trong một số trường hợp đối với con người.

 Theo quan điểm của Thần đạo thì thế giới ‘duy linh’ hay ‘năng lượng tự nhiên’ trong thế giới hữu hình như mặt trời, mặt trăng, sông, núi, cỏ cây...đều có sự kết nối mật thiết với con người. Trong Shinto, thế giới ‘duy linh’ không tách biệt mọi người mà chúng cùng tồn tại, cùng ảnh hưởng lẫn nhau. Shinto là một tôn giáo dựa trên vẻ đẹp tự nhiên của Nhật Bản. Nó bắt đầu trong mọi thứ quyền lực do một vị thần hoặc kami, tương tự như một hào quang sống.

Người Nhật Bản tìm thấy Phật giáo đặc biệt hấp dẫn bởi vì Phật giáo Đại thừa cung cấp cho họ rất nhiều hình thức của sự thờ phượng và những nghi lễ tâm linh. Đều này tương ứng với kami trong Shinto giáo. Trong đạo Phật, người Nhật tìm thấy một sức mạnh kỳ diệu để chữa trị tâm bệnh. Đặc biệtgiáo lý từ bi, sự cảm thông chia sẻ và sự giải thoát khỏi những ưu phiền, đau khổ. Không giống như Shinto, Phật giáoTam tạng kinh điển, một nền văn học tôn giáo đồ sộ, một học thuyết thâm sâu, phong phú, đủ đáp ứng cho con người vô số giáo lý nhằm cung ứng cho những căn cơ trình độ khác nhau, ai cũng có thể tiếp nhận, tu tập để kiến tạo sự an lạc giải thoát trong giáo lý ấy. Hơn thế nữa, Phật giáo có một tổ chức Tăng đoàn thanh tịnhhòa hợp. Họ là những con người luôn thể hiện tinh thần ‘thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh’, tiếp nối thay Phật truyền bá lời Phật dạy tại thế gian này. Phật giáo còn có một truyền thống rực rỡ của nghệ thuật tôn giáo và kiến ​​trúc điêu khắc đặc thù. Nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật kiến trúc chùa chiền mang tính hài hòa và trình độ thẩm mỹ cao.

Người Nhật thiếu những nền triết thuyết tôn giáo vĩ đại như Ấn Độ. Họ đã rất choáng ngợp bởi các kinh điển Phật giáo, triết học, và các và các công trình kiến trúc nghệ thuật Phật giáo. Từ những ấn tượng đó, bắt đầu họ xem Ấn Độ là ‘Tenjiku’ Thiên Trúc (天竺)  một cõi Thiên đường đã tồn tại ở phía Tây. Đó là những ấn tượng tốt đẹp, một nơi đáng mơ ước để đến chiêm bái, kính lễphụng thờ.

Từ Tenjiku đến Indo

Hình ảnh Ấn Độ được xem như Thiên Trúc mang một ý nghĩa tinh thần và sự yên bình bắt đầu thay đổi sau khi người ta phát hiện ra các tuyến đường biển trong thế kỷ 15, các thương gia châu Âu bắt đầu đến Ấn Độ. Không giống các du khách Trung Quốc như ngài Pháp HiểnHuyền Trang đến Ấn Độ để chiêm bái các Thánh tích Phật giáo và để thỉnh Tang tạng kinh điển. Những du khách châu Âu đến Ấn Độ với mục đích tìm kiếm của cải vật chất như trà, hàng dệt may, gia vị, gấm lụa và các vật phẩm quý hiếm khác. Các thương nhân này đến Ấn Độ họ mang theo một nền văn hóa mới gọi là: Namban Bunka và nhiều mặt hàng hấp dẫn và quý hiếm như ngà voi, ngọc traicác loại gia vị. Như vậy, từ thế kỷ thứ 15 trở đi, người ta đến Ấn Độ với mục đích để buôn bán, trao đổi hàng hóa chứ không còn đến với ý nghĩa tinh thần cao quý như trước đây nữa. Hơn nữa, vào thời điểm này đất nước Ấn Độ đã bị hồi giáo xâm lược. Các thánh tích Phật giáo đều bị quân Hồi giáo tàn phá, vùi lấp. Những tu sỹ cũng bị chém giết, một số sống sót thì phải lưu vong, dần dần Phật giáo cũng đã biến mất khỏi đất nước sinh ra nó.

Sự biến đổi thế cuộc trong chính trị và tôn giáoẤn Độ diễn ra làm hình ảnh của một đất nước được ví như “thiên đường” hoàn toàn biến mất trong nhận thức chung của mọi người. Biểu tượng ‘Thiên Trúc’ của Ấn Độ được thay đổi qua một thuật ngữ khác đó là Indo. Indo nghĩa là ‘Đông dương’ nó cũng mang một ý nghĩa của sự sung túc. Chính vì sự sung túc trong các hàng hóa, vật liệu quý hiếm nên người ta đến Ấn Độ để giao tiếp thương mại nhiều hơn là ý nghĩa tâm linh vốn có của họ. Tên gọi India bắt nguồn từ Indus, từ này lại bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư cổ là Hinduš. Thân từ của thuật ngữ tiếng Ba Tư bắt nguồn từ tiếng Phạn Sindhu, là tên gọi bản địa có tính lịch sử của sông Ấn (Indus). Người Hy Lạp cổ đại gọi người Ấn Độ là Indoi (Ινδοί), có thể dịch là “người của Indus”.

Vào giữa thế kỷ XIX khi Ấn Độ trở thành thuộc địa chính thức của Vương quốc Anh. Vào thời điểm đó, Trung Quốc cũng bị mất chủ quyền. Nền văn hóa truyền thống lâu đời của họ cũng bị ảnh hưởng. Từ đó, người Nhật Bản xem hai đất nước này trở nên “tiêu cực”  mà Nhật Bản không muốn đặt quan hệ ngoại giao. Sự biến dạng văn hóa và phong cách sống của người dân Ấn Độ đã làm thay đổi hình ảnh đẹp đẽ Thiên Trúc của mình trong tâm thức của người Nhật nói riêng và thế giới nói chung. Ngày nay, khái niệm Thiên Trúc không còn nữa. Cụm từ hoa mỹ này đã đi vào dĩ vãng. Nhưng sự ảnh hưởng của nó trong một thời gian lâu xa đã cho thấy sự kính ngưỡng của người con Phật đối với đất nước sản sinh ra Đức Phật, bậc thầy vĩ đại của nhân loại vẫn cong nguyên vẹn. Hiện nay, Phật giáo tại Ấn Độ đang dần dần phát triển trở lại. Người Ấn vẫn tự hào vì đất nước của họ đã sinh ra Đức Phật và là nơi khơi nguồn của Đạo Phật. Nhiều di tích mang dấu ấn của Đức Phật vẫn được chính phủ Ấn Độ giữ gìn cẩn thận. Hệ thống Phật tích được khám phá gần như toàn diện bởi các nhà khảo cổ học danh tiếng. Hằng năm, nhiều đoàn hành hương của người con Phật từ khắp nơi trên thế giới đều tìm về đây chiêm báiđảnh lễ. Khi được trải nghiệm thực tế trên đất Phật họ cảm nhận được năng lượng mầu nhiệm từ Đức Phật dường như vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn. Chúng ta cảm ơntri ân họ, người Ấn hiền hòa dễ thương đã trân quý và lưu giữ những thánh tích Phật giáo còn nguyên vẹn. Giá trị tâm linh của những thánh tíchmiên viễn, để nguồn mạch Phật đạo vẫn luôn tuôn chảy mang lại lợi lạc cho mọi người trên thế giới này.

Thích Trung Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1660)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1634)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1037)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1514)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1496)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1944)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1535)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1558)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1151)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1272)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1285)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1697)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1650)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3008)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1826)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1366)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1412)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1325)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1692)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1894)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1824)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2130)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2237)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1979)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2032)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1948)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1892)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1946)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1897)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2172)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2312)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1986)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2099)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1888)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1913)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2421)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2326)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4001)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2489)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2047)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1800)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3313)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2347)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3032)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2703)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant