Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Định Hình Con Đường Tu Chứng Trong Kinh Pháp Hoa

01 Tháng Hai 202107:20(Xem: 4105)
Định Hình Con Đường Tu Chứng Trong Kinh Pháp Hoa

Định Hình Con Đường Tu Chứng Trong Kinh Pháp Hoa

 

Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy. Bước thêm bước nữa, để hiểu Phật tánh là tánh giác ngộ. Tánh giải thoát. Tánh không còn ô nhiễm, vô minh. Cái tánh mà trong Kinh Pháp Hoa, Phật nói:

"Đức Phật vì một Phật sự lớn mà thị hiện nơi đời, đó là Khai, Thị chúng sanh - Ngộ, Nhập Phật tri kiến. Bốn chữ: Khai, Thị, Ngộ, Nhập là con đường độ sinh của Phật, mà cũng là chỗ ách yếu cho những ai tinh tấn tu trì để giác ngộ thành Phật.

Hai chữ Khai, Thị là của Phật. Còn hai chữ Ngộ, Nhập là của chúng ta. Phật vì lòng Từ Bi, Trí Tuệphương tiện quyền xảo mở bày dưới mọi phương thức, hành động, giáo dục mà không đóng kín cửa con đường giác ngộ. Con đường giác ngộ rộng thênh thang. Bầu trời giác ngộ không có ngần mé, giới hạn. Giáo Pháp của Phật là giáo pháp thật chứng, là giáo pháp công truyền cho những ai đến để thấy. Cánh cửa thật tu thật chứng đã mở cho tất cả mọi căn cơ, trình độ. Cánh cửa vô sanh, bất tử đã hiển bày. Đức Phật đã mở bày cho chúng ta qua giáo pháp Tứ Thánh Đế, Bát Thánh Đạo... Để từ đó, chúng ta:

Khai: Phật mở rộng tất cả các pháp môn khai, quyền, hiển, thật... Mở ra con đường tu tập chấm dứt khổ đau. Mở ra con đường tu chứng thánh quả Vô Thượng Bồ Đề. Mở ra giáo pháp Tri kiến Như Lai, Phật thừa thánh đạo.

Thị: Phật chỉ cho chúng ta thấy đây là khổ các con phải thấy. Mà thấy thì chúng ta phải đoạn tận nguyên nhân của Khổ - Tập. Sau khi thấy Khổ là hậu quả của nhân tức Tập, mà tiến lên một bước nữa là Diệt và Đạo: Tu để chứng. Như vậy, Phật chỉ cho chúng ta thấy một cách rõ ràng Khổ Tậpnhân quả của thế gian, cần phải chấm dứt. Diệt, Đạo là nhân quả của xuất thế gian để tu mà chứng.

Ngộ: Giác ngộ. Liễu tri. Hiểu biết một cách tường tận về sự Khổ. Thấy rõ sự mê mờ, tối tăm của các hành vô minh, tham dục, khát ái, để ly khai chúng, dập tắt không cho sinh khởi, mà một khi dập tắt vô minh, đoạn trừ tham dụckhát ái thì một trời giác ngộ hiện bày. Tham, sân, si không còn. Vô tham, vô sân, vô si hiển hiện. Trời chân như tỏ rõ, hiện tiền:

"Nhất nhơn phát chơn quy nguyên

Thập phương thế giới tận thành tiêu vẫn."

Khi chúng ta phát tâm tu tập để trở về với bản tánh chân thật, thì cảnh giới mê mờ, lầm chấp, vô minh trụ địa, vọng tưởng trước đó đều tiêu mất không còn tồn tại. Điều này giống như người nhặm mắt nhìn vào hư không thì thấy đầy trời hoa đốm. Nhưng khi hết nhặm mắt rồi thì nhìn vào hư không thấy rỗng suốt, lắng trong, không thấy có hoa đốm nữa.

Nhập: Sau khi chúng ta đã ngộ được lời Phật dạy: Nhơn pháp câu không. Ngã, ngã sở đều giả có mà không thật. Tất cả các pháp đều không tánh - như lời Kinh Bát Nhã: "Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm" thì thênh thang mà bước vào thế giới chân như, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Một thế giới tuyệt đối an lạc. Vậy trước khi bước vào thế giới an lạc tuyệt đối này cần phải rũ bỏ tất cả mọi huyễn hoặc của phàm tình để có được tri kiến Phật. Phương tiện có Khai, có Thị, có Ngộ, có Nhập một cách rốt ráo mà có được tri kiến Phật. Đây chính là định hướng con đường tu chứng của Kinh Pháp Hoa. Ngoài ra, còn có nhiều nhơn duyên phương tiện khác:

"Nhất nhơn tán loạn tâm

Nhập ư tháp miếu trung

Nhứt xưng Nam Mô Phật

Giai dĩ thành Phật Đạo."

Dịch:

Một người tâm tán loạn

Đi vào trong tháp Phật

Một lần niệm Phật thôi

Người ấy đã thành Phật.

Nếu hiểu rốt ráo thì thành Phật đâu dễ dàng như vậy. Tâm tán loạn đã là tâm cần buông bỏ tâm cần thủ hộ, phòng hộ cẩn mật, chứ có đâu mà chỉ niệm "Nam Mô Phật" mà thành Phật được. Vậy thành Phật ở đây phải hiểu như thế nào?

Điều thứ nhất: Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Cái tánh Phật luôn có trong tâm của con người, dù người ấy định tâm hay tán tâm, bất cứ khi nào, lúc nào tánh Phật cũng luôn ở trong ta.

Điều thứ hai: Dù người tán tâm ấy suy nghĩ trời, trăng, mây, gió nhưng cũng đồng thời nhớ mình bước chân vào tháp Phật thì niệm Phật nghe. Niệm Phật được phước. Như vậy, tâm Phật và tâm chúng sanh trộn lẫn với nhau, ở chung với nhau. Khi tâm nào mạnh hơn thì tâm ấy hiện khởi, tâm ấy nổi trội, còn tâm nào yếu hơn thì tâm ấy chìm xuống, lắng sâu.

Điều thứ ba: Khi mình đối cảnh mà không sinh tâm: Cư trần lạc đạo - Trần Nhân Tông, thì gọi là Thiền. Nhưng đồng thời đối cảnh mà sanh tâm - tâm thiện, tâm lành, tâm sùng kính, tâm lễ Phật, quy y... thì đây là trường hợp ngang qua đời sống, sinh hoạt hằng ngày. Như năm bảy người đang chuyện trò, nói đông tây, kim cổ ở ngoài sân chùa và được mời vào Chánh điện, thì tất cả những chuyện đông tây, kim cổ ấy đều chấm dứt ngay - tâm tán loạn lắng xuống và tất cả mọi người nhất tâm chấp tay, chiêm ngưỡng Phật và lạy Phật - tâm thanh tịnh dấy khởi. Như vậy, những người ấy cũng được phước. Ta gọi đó là thành Phật - thành Phật từng phần chứ chưa phải thành Phật toàn phần. Từng phần giác, chứ chưa phải toàn phần giác, rồi nhiều nhơn duyên hội tụ như vậy mà thành toàn giác.

Điều thứ tư: Con ngườitâm tán loạn khi đó nhưng vẫn có nhơn duyên với Phật Pháp, nên đã bước chân vào tháp Phật và niệm "Nam Mô Phật" thì có gì bằng. Trong khi tâm mình tán loạn, ấy vậy mà nhìn thấy ngôi bảo tháp thờ Phật, tâm thành kính trổi dậy, tâm tán loạn liền mất. Đây có phải là đã thành Phật trong sát na ấy không? Vì trước mặt của mình chỉ có tháp Phật và mình đang ở trong tháp Phật, cảm giác an vui, hạnh phúc của người có tín tâm với Phật. Niềm tin yêu giác ngộ.

Điều thứ năm: Có biết đâu, người tâm tán loạn hôm nay, nhưng nhiều đời trước họ cũng đã từng niệm "Nam Mô Phật". Do vậy, hạt giống Phật đã được gieo trong tâm và bây giờ gặp cảnh Phật thì nhớ mà niệm "Nam Mô Phật" một cách tự nhiên, không cố gắng, không vận dụng, không cố ý, mà đã nhập diệu lâu đời.

Tóm lại, nhờ nhơn niệm Phật mỗi ngày một ít, để tích lũy lâu đời, được tâm thanh tịnh, rồi một khi nhơn duyên nó đến là hiển lộ Phật tâm, Phật lòng, Phật hạnh ngay tức khắc. Con đường tu chứng của Kinh Pháp Hoa là làm như thế nào để cho cái hoa sen trong tự tâm của chúng ta ngày thêm tươi tốt, vượt thoát ra khỏi bùn lầy phiền não để nở hoa đẹp, để đơm hương thơm hiến dâng cho đời, như lời bài kệ:

"Khể thủ từ bi đạo sĩ tiền

Mạc sanh Tây thổ mạc sanh thiên

Nguyện vi nhất trích dương chi thủy

Sái tác nhân gian tịnh đế liên."

Dịch:

Trước đấng từ bi nguyện mấy lời

Chẳng sanh đất Phật chẳng lên trời

Xin làm giọt nước cành dương nhỏ

Sái rực đài sen sạch bụi đời.

Giáo pháp tu chứng ngay trong thế gian mà không tìm cầu nơi xa xôi nào khác. Bởi vì sự vật nó là: cái Tánh như vậy, cái Tướng như vậy, cái Thể như vậy, cái Tác như vậy, cái Dụng như vậy... Rốt ráo trước sau như vậy. Giáo pháp Thập như đã khẳng định một cách minh nhiên rằng: sơn hà đại địathế giới con người tất cả đều là như vậy.

Nhất thừa đạocon đường tu chứng của Kinh Pháp Hoa. Chúng ta hãy nhiếp niệm tâm ý nghe lời Phật dạy qua bài kệ nơi Phẩm Phương Tiện:

Chư Phật lưỡng túc tôn

Tri pháp thường vô tánh

Phật chủng tùng duyên khởi

Thị cố thuyết nhất thừa

Thị pháp trụ pháp vị

Thế gian tướng thường trụ

Ư đạo tràng tri dĩ

Đạo sư phương tiện thuyết."

Dịch:

Các đức Phật có đủ đôi chân phước và huệ - Phước huệ lưỡng toàn

Phật biết rõ các pháp là không tánh - tánh không

Hạt giống Phật từ nơi duyên mà hiện khởi.

Cho nên phương tiện nói là nhất thừa

Pháp ấy an trụ và vị trí nó như vậy

Tướng của thế gian luôn hiện hữu - Hiện hữu trong vô thường, vô ngã.

Nơi Đạo tràng, trong hội chúng hiểu như vậy.

Bậc Đạo sư phương tiện mà giảng dạy.

"Đức Phật thì thấy các pháp trùng trùng duyên khởi tương quan lẫn nhau vô cùng tận mà hình thành. Như vậy, một pháp hiện hữu giữa tất cả các pháp, tất cả các pháp hiện hữu từ một pháp. Ngoài một pháp không có tất cả pháp, ngoài tất cả pháp không có một pháp. Nếu thấy các pháp riêng biệt là không hiểu rõduyên khởi... Các pháp có khi thành, khi hoại, khi có, khi không, gọi là sanh tử thành hoại, nhưng cái vô tự tánh của các pháp thì không có sanh tử thành hoại." Lược giảng Kinh Pháp Hoa - HT Thích Thiện Siêu - Trang 515.

Tu cho mình. Tu cho người. Tu cho cả hai. Rồi cả hai đều thành Phật thì cần phải có yếu tính Từ Bi:

- Chúng sanh duyên từ

- Pháp giới duyên từ, hay đồng thể đại bi

- Vô duyên từ hay vô duyên đại từ

Cả một trời đại từ. Cả một biển đại bi. Người tu lấy đó làm chất liệu để hóa độ. Có hóa độ thì có tu tập. Có tu tập thì có chứng đắc. Ba đức tính của người tu Pháp Hoa thật rõ ràng:

- Ở nhà Như Lai

- Mặc áo Như Lai

- Ngồi tòa Như Lai

1. Nhà Như LaiĐại Bi Tâm. Người tu là phải có Tâm Đại Bi. Không có Tâm Đại Bi - Tâm Cứu Khổ là không tu được.

2. Áo Như Lai là áo Nhu hòa Nhẫn nhục. Người tu mà không nhẫn nhục thì không thể tu được.

3. Tòa Như LaiNhất thiết pháp không. Người tu phải hiểu, tất cả các pháp đều không - Vô ngã. Nếu không hiểu các pháp đều không - Sự vật đi trên tiến trình: Thành, Trụ, Hoại, Không thì không thể tu được. Vì còn nhiều sự ràng buộc, dính mắc bởi cái ngã và ngã sở.

Chúng ta lắng nghe HT Thích Trí Thủ phát nguyện:

"Một lòng kính lạy Phật Đà

Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai

Con nguyền mặc áo Như Lai

Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời."

Định hình cho một con đường tu chứnghạnh phúc biết bao. Con đường của sự thăng hoa Thánh thiện. Con đường dẫn đến sự giác ngộ, giải thoát - Con đường Nhất Thừa Đạo - con đườngPháp Hoa đã khẳng định: con người tu, con người thành Phật. Đức Thế Tôn đã tuyên bố một cách minh nhiên.

Chùa Phật Đà, ngày 30 tháng 01 năm 2021

Thích Nguyên Siêu

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1533)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1665)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1636)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1040)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1519)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1501)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1947)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1537)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1562)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1152)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1273)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1699)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3013)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1827)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1367)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1414)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1326)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1695)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1895)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2395)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2133)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2240)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2304)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1858)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1981)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2036)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1959)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2596)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1950)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1894)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1948)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1898)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2173)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2316)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1988)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2100)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1888)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1915)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2423)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2327)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4005)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2490)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2477)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2049)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1803)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3316)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2348)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3034)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant