Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

20 Tháng Giêng 202220:04(Xem: 2043)
Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

hinh phat 2


Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh? Chúng ta sẽ tìm hiểu để thực hành những vấn đề này theo phẩm Thế giới thành tựu thứ tư của Kinh Hoa Nghiêm.

1/ Vũ trụ này thực sự là gì?

Trí huệ công đức biển rất sâu

Hiện khắp mười phương vô lượng cõi

Tùy các chúng sanh đáng được thấy

Quang minh chiếu khắp chuyển pháp luân.

Mười phương biển cõi chẳng nghĩ bàn

Phật vô lượng kiếp đều nghiêm tịnh

Vì độ chúng sanh khiến thành thục

Xuất hiện tất cả các cõi nước.

Vũ trụ này là “biển trí huệ, công đức hiện khắp mười phương cõi” của Phật Tỳ Lô Giá Na. Vũ trụ này là “ánh sáng chiếu khắp chuyển pháp luân” của Phật. Vũ trụ này là “mười phương biển cõi chẳng thể nghĩ bàn, đều trang nghiêm thanh tịnh từ vô lượng kiếp của Phật”.

Nghe được (Văn) như thế, suy nghĩ sâu sắc (Tư) về vũ trụ Phật như thế, và thiền định thiền quán (Tu) vũ trụ Phật ấy, người thực hành sẽ thấy vũ trụ này là “sự chuyển pháp luân khắp cả” của Phật Tỳ Lô Giá Na. Đó gọi là Nhập Pháp Giới, như tựa đề của phẩm cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm. Pháp giới này, là cảnh giới Phật Tỳ Lô Giá Na.

Chúng sanh rộng lớn đến vô biên

Như Lai tất cả đều hộ niệm

Chuyển chánh pháp luân khắp mọi nơi

Đây là cảnh giới Tỳ Lô Phật.

Cảnh giới ấy là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na thị hiện thành Báo thân quang minhHóa thân tức là tất cả vũ trụ, cho đến trong mỗi hạt bụi.

Pháp thân chư Phật chẳng nghĩ bàn

Không sắc không hình không ảnh tượng

chúng sanh hiện tướng sai khác

Tùy tâm họ thích đều khiến thấy

Tất cả cõi nước những hạt bụi

Trong mỗi hạt bụi Phật đều nhập

Khắp vì chúng sanh hiện thần biến

Pháp Tỳ Lô Giá Na như vậy.

2/ Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh?

Thế nhưng chính trong và trên pháp giới Tỳ Lô Giá Na Đại Quang Minh Tạng này lại có những thế giới nhiễm ô bất tịnh của chúng sanh sanh ra, đó là do:

Chúng sanh bị phiền não loạn nhiễm

Phân biệt ham muốn chẳng một tướng

Tùy tâm tạo nghiệp chẳng nghĩ bàn

Tất cả biển cõi đều thành lập.

Tất cả các cõi nước nhiễm ô bất tịnh đều do tâm nhiễm ô bất tịnh của chúng sanh mà sanh ra:

Tất cả các cõi nước

Đều tùy nghiệp lực sanh

Các ông nên quan sát

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền não đáng sợ

Tâm họ khiến cõi nước

Tất cả thành nhiễm ô.

Phân biệt và các phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… đã làm cho pháp giới “một tướng” thành những phân mảnh đối nghịch nhau, chống đối nhau, thành sanh tử khổ đau. Phân biệt và các phiền não tích tập nhiều thì thành tập khí (những khuynh hướng thói quen, habitual tendencies), đây là cơ sở cho thế giới nhiễm ô nhưng tạm thời, thành lập một cách hư vọng, hiện khởi.

Tất cả cõi do tâm phân biệt

Quang minh soi đến mà hiện ra

Chư Phật ở trong những cõi ấy

Nơi nơi thị hiện thần thông lực.

Có cõi tạp nhiễm hoặc thanh tịnh

Chịu khổ hưởng vui đều khác nhau

Đều do biển nghiệp chẳng nghĩ bàn

Các pháp lưu chuyển luôn như vậy.

Trong một chân lông vô lượng cõi

Đồng số hạt bụi mà an trụ

Mỗi cõi đều có Phật Biến Chiếu

Ở trong chúng hội diễn diệu pháp.

Tất cả các cõi nhiễm ô bất tịnh đều do tâm phân biệt chứa những thứ phiền nãoxuất hiện. Nhưng dù xuất hiện nhiễm ô bất tịnh thế nào thì chúng cũng phải xuất hiệnhiện hữu trên nền tảng quang minh của Phật Tỳ Lô Giá Na Biến Chiếu: “Quang minh soi đến mà hiện ra, chư Phật ở trong những cõi ấy, nơi nơi thị hiện thần thông lực”.

Cụ thể, một ý tưởng, một niệm phân biệt, phiền não của mỗi chúng ta đều chỉ hiện khởi được trên nền tảng ánh sáng của Pháp thân Phật. Nó hiện hữu chốc lát và lại tan vào ánh sáng của Pháp thân Phật. Đây là sự thực hành thiền địnhthiền quán để tâm càng ngày càng sâu rộng cho đến lúc tương ưng được với Pháp giới Tỳ Lô Giá Na.

Để tương ưng, vào được pháp giới Phật Tỳ Lô Giá Na “hiện khắp mười phương vô lượng cõi”, hành giả bắt đầu bằng lòng tin trong sạch để hành đạo Bồ tát, mà trọn vẹn là hạnh Bồ tát Phổ Hiền:

Cảnh Phật rất sâu khó nghĩ bàn

Khắp dạy chúng sanh khiến được vào

Tâm họ ưa nhỏ chấp các cõi

Chẳng thông đạt được cảnh giới Phật.

Nếu lòng tin trong sạch vững chắc

Thường được gần gũi thiện tri thức

Tất cả chư Phật hộ niệm cho

Đây mới vào được Như Lai trí.

Lìa các nịnh dối tâm thanh tịnh

Thường vui từ bi tánh hoan hỷ

Chí nguyện rộng lớn tin hiểu sâu

Khi nghe pháp này lòng vui đẹp.

An trụ Phổ Hiền những hạnh nguyện

Tu hành đạo Bồ tát thanh tịnh

Quan sát pháp giới như hư không

Bèn biết cảnh giới hạnh của Phật.

3/ Các thế giới chuyển biến

Bấy giờ, Bồ tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng:

Các Phật tử! Nên biết thế giới hải có số nhiều như hạt bụi của thế giới hải kiếp chuyển biến khác nhau. Vì pháp như vậy nên thế giới hảivô lượng kiếp thành kiếp hoại chuyển biến. Vì chúng sanh nhiễm ô nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm ô. Vì chúng sanh tu phước rộng lớn nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm tịnh. Vì Bồ tát tin hiểu trú ngụ nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm tịnh. Vì vô lượng chúng sanh phát Bồ đề tâm nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp thanh tịnh. Vì các Bồ tát đều đi khắp các thế giới nên thế giới hải vô biên kiếp chuyển biến trang nghiêm. Vì mười phương tất cả các Bồ tát vân tập nên thế giới hải vô lượng kiếp chuyển biến đại trang nghiêm. Vì chư Phật vào Niết bàn nên thế giới hải kiếp trang nghiêm chuyển biến diệt. Vì chư Phật xuất hiện ra đời nên tất cả thế giới hải kiếp rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh chuyển biến. Vì thần thông biến hóa của Như Lai nên thế giới hải kiếp chuyển biến thanh tịnh khắp. Có vi trần số kiếp chuyển biến như vậy”.

Những thế giới hải, những biển thế giới (y báo) có vô số chuyển biến, tùy theo thân tâm (chánh báo) của tất cả chúng sanh sống trong đó. Cho nên bài kệ Bồ tát Phổ Hiền khi tuyên lại nghĩa này đã mở đầu:

Tất cả những cõi nước

Đều tùy nghiệp lực sanh

Các ngài nên quan sát

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền não đáng sợ

Tâm họ khiến cõi nước

Tất cả thành nhiễm ô.

Nếu có tâm thanh tịnh

Tu những hạnh phước đức

Tâm họ khiến cõi nước

Tạp nhiễmthanh tịnh.

Những thế giới chúng sanh sanh ra là do nghiệp lực. Nghiệp nhiễm ô phiền não thì thế giới chuyển biến thành nhiễm ô, và nếu chúng sanhtâm thanh tịnh, làm hạnh phước đức thì thế giới tạp nhiễm dần dần chuyển biến thành thanh tịnh. Thế giới này tốt hơn hay xấu hơn tùy thuộc vào tâm và hạnh của con người sống trong đó chuyển biến tốt hơn hay xấu hơn. Và thực hành đạo Phậtcon đường để con người chuyển biếnthế giới chuyển biến thành tốt đẹp thanh tịnh.

Cho nên sự sắp xếp các thế giới chuyển biến thành thanh tịnh tùy theo cấp độ tâm hạnh thanh tịnh của các Bồ tát cho đến Phật.

Các Bồ tát tin hiểu

Sanh vào trong kiếp kia

Tùy tâm Bồ tát này

Cõi nước đủ tịnh nhiễm.

Vô lượng số chúng sanh

Đều phát tâm Bồ đề

Tâm họ khiến cõi nước

Kiếp trụ thường thanh tịnh.

Bồ tát tin hiểu ở cấp Mười tín, Mười trụ, Mười hạnh, Mười hồi hướng. Bồ tát này chưa chứng Pháp thân ở cấp Mười Địa, nhưng tâm hạnh đã bắt đầu đẩy lùi nhiễm ô của thế giới nên thế giới vừa có nhiễm vừa có tịnh.

Còn nếu tất cả vô lượng số chúng sanh trong thế giới ấy đều phát Bồ đề tâm thì kiếp trụ của thế giới ấy thường thanh tịnh. Đây là hàng Bồ tát sơ phát tâm, nhưng nếu tất cả chúng sanh trong thế giới đều phát Bồ đề tâm và phát triển Bồ đề tâm ấy trong mọi mặt của đời sống hàng ngày thì thế giới ấy thường thanh tịnh.

Phát Bồ đề tâm nguyện và làm Bồ đề tâm hạnh là trụ cột làm thế giới chuyển biến.

Vô lượng ức Bồ tát

Đến khắp mười phương cõi

Trang nghiêm không khác nhau

Trong kiếp thấy sai khác.

Vô lượng ức Bồ tát đến khắp mười phương cõi, đều dùng hạnh Bồ tát để trang nghiêm, nên nói là “trang nghiêm không khác nhau”, cho các cõi nước. Đây là hàng Bồ tát Pháp thân, mà đời sống của các ngài là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

Các Bồ tát Pháp thân đều cùng một hạnh “trang nghiêm không khác nhau”, đều cùng “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”, nhưng vì có những cõi có tịnh có nhiễm nên những chúng sanh ở các cõi đó thấy các Bồ tát ấy và y báo, tức là thế giới của các ngài, có sai khác, “trong kiếp thấy sai khác”. Chúng sanh thấy có sai khác vì nghiệp của họ có sai khác, nhưng các Bồ tát Pháp thân đều được các kinh gọi là các Phật tử, các con Phật, nghĩa là cùng một dòng máu Phật, một hạnh Phật, và cái thấy của các ngài, dầu chưa hoàn toàn, thì thế giới này với riêng các ngài bắt đầu hiện thành thế giới thanh tịnh của Phật. Cũng do cái thấy và hạnh thanh tịnh này mà các Bồ tát có thể chịu đựng được, nhẫn chịu được những nghiệp sai khác nhau của chúng sanh, vì Bồ tát đã thấy được “thật tướng của tất cả các hiện tượng (các pháp)”. Với tâm thanh tịnh (chánh báo) các vị có thể sống trong thế giới thanh tịnh (y báo) của riêng mình, bất chấp nghiệp nhiễm ô của chúng sanh, bất chấp thế giới nhiễm tịnh của chúng sanh.

Cho đến khi hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn đạt được Pháp thân thì Bồ tát thấy được, thân chứng được thế giới nhiễm tịnh này, thậm chí trong từng hạt bụi, là pháp giới của Phật. Hay nói cách khác, pháp giới là sự thị hiện của Pháp thân, Báo thânHóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na.

Trong mỗi mỗi hạt bụi

Cõi Phật nhiều như bụi

Bồ tát cùng vân tập

Cõi nước đều thanh tịnh.

dĩ nhiên, với chư Phật, tất cả pháp giới đều xưa nay thanh tịnh, hoàn toàn trang nghiêm, hoàn toàntịnh độ. Thế nên, đối với một vị Phật thì nhập Niết bàn hay ứng hiện ra đời thì vẫn là Pháp thân, Báo thânHóa thân bất biến không dứt. Nhưng với chúng sanh, nếu có Phật ra đời, nghĩa là có thị hiện thành Hóa thân hay Sắc thân ở cõi này để chúng sanh có thể thấy, nghe, tri giác thì họ có đủ hoàn cảnh, điều kiện, đủ duyên để làm “pháp khí” hầu nâng cấp mình cho đến giải thoát, giác ngộ. Do tâm hạnh thanh tịnh ấy nên cõi này có đủ sự trang nghiêm.

Nếu Phật nhập Niết bàn, vào cõi Thường Tịch Quang (theo kinh Đại Bát Niết Bàn), trong đó vẫn đủ cả Ba Thân, nhưng không có Hóa thân ở cõi này, chúng sanh không còn thấy Hóa thân Phật, không còn chỗ cụ thể để nương nhờ, quy y, để trở thành pháp khí, cho tâm dễ dàng thanh tịnh mà thấy được “đầy đủ sự trang nghiêm” của Phật, Pháp, Tăng, thường trụ.

Thế tôn nhập Niết bàn

Cõi ấy trang nghiêm diệt

Chúng sanh chẳng pháp khí

Thế giới thành tạp nhiễm.

Nếu có Phật ra đời

Cõi nước đều tốt đẹp

Tùy tâm họ thanh tịnh

Trang nghiêm đều đầy đủ.

Lực thần thông chư Phật

Thị hiện chẳng nghĩ bàn

Bấy giờ các biển cõi

Tất cả khắp thanh tịnh.

Như vậy, thế giới chuyển biến là do con người sống trong đó chuyển biến, tịnh hóa thân tâm và thế giới của mình và người. Đây là công việc Phật hóa thân tâm và thế giới của mình và người, Phật hóa toàn bộ chánh báoy báo của tất cả mọi người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11489)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12658)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12276)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11057)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10924)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13380)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11804)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13690)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11924)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11189)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12227)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12426)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20618)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12445)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12470)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11738)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11614)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22452)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13600)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29722)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11564)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16772)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12023)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16864)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12091)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17947)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12672)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13193)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14793)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22656)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10608)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14081)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13894)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13742)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13882)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13959)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14849)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13877)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18435)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22830)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15415)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17343)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22429)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14281)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12606)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11203)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17782)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13223)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13127)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18824)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17202)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13537)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12938)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14716)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14682)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15897)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13535)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27456)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13267)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16742)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant