Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hiểu Thế Nào Về Câu “duy Ngã Độc Tôn”?

15 Tháng Năm 202216:41(Xem: 2327)
Hiểu Thế Nào Về Câu “duy Ngã Độc Tôn”?
Hiểu Thế Nào Về Câu “duy Ngã Độc Tôn”? 

Thích Phước Tiến

Hiểu Thế Nào Về Câu “duy Ngã Độc Tôn

Trong thời buổi hiện tại, những người muốn tìm hiểu các triết lý Phật giáo đã rất thuận tiện và dễ dàng. Mặc dù vậy, các vấn đề triết lý Phật giáo cũng gây không ít khó khăn, bởi những từ Phật học đa nghĩa, và cách lý giải cũng đa dạng, làm cho người học Phật bị hoài nghi bối rối.

Chẳng hạn, cụm từ “Duy ngã độc tôn” đã có không biết bao nhiêu lời giải thích, nhưng dường như vẫn chưa làm thỏa mãn khách bàng quan, kể cả những người thật tâm nghiên cứu Đạo Phật. Trong các bài kệ của nhiều kinh tạng Phật giáo, đã có đề cập đến câu này, chỉ khác về các câu phụ, còn cụm từ “Duy ngã độc tôn” thì đều giống nhau. Như vậy, chắc chắn từ Duy Ngã Độc Tôn không thể phủ nhận ý nghĩa và giá trị triết học của nó, nhưng trong đó có lẻ từ “Duy ngã” đem đến sự ngộ nhận và tranh cãi nhiều nhất.

Dựa vào lịch sử Đức Phậtchúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân, và bước cuối cùng, Ngài đưa một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, dõng dạc tuyên ngôn: “Thiên thượng thiên hạduy ngã độc tôn”- trên trời dưới trời chỉ có ta (Phật) là tối thượng nhất. Nhiều kinh điển có dẫn chứng câu tuyên ngôn cùng với ý nghĩa này nhưng với các nội dung khác nhau.

Theo kinh Trường A Hàm I, “Thiên thượng thiên hạduy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử” (Trên trời dưới trời chỉ có Ta là tôn quý, việc quan trọng nhất ‘của ta’ là độ chúng sanh thoát ly sanh già bệnh chết - Kinh Đại Bổn Duyên).

Kinh Tu Hành Bản Khởi ghi: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tônTam giới vi khổ, ngô đương an chi” (Trên trời dưới trời chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ, Ta sẽ làm cho chúng sanh an lạc – Đại Chính Tân Tu [ĐCTT], T3, tr.463C) (Phật pháp bách vấn (PPBV) - tập II).

Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi quyển Thượng chép: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?” (Trên trời dưới trời chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc? – ĐCTT, T3, tr.473C) (PPBV – tập II).

Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi thuật: “Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá ngã giả” (Trên trời dưới trời, bậc tôn quý nhất không ai bằng Ta – ĐCTT, T3, tr.618A) (PPBV – tập II).

Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, “Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắngVô lượng sanh tử ư kim tận hỷ” (Ta, đối với tất cả hàng trời người là bậc tối tôn tối thắngVô lượng sanh tử từ nay chấm dứt – ĐCTT, T3, tr.625A) (PPBV – tập II).

Kinh Phật Bản Hạnh Tập, “Thế gian chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật, sanh phần dĩ tận” (Ở trong thế gian, Ta là bậc cao nhất. Từ nay, việc sanh tử của Ta đã đoạn tận – ĐCTT, T3, tr.687B) (PPBV – tập II).

Qua các đoạn kinh trích dẫn, chúng ta được hiểu chữ Ngã trong các ngữ cảnh trên là chỉ Đức Phật (Ngã = Ta = Phật). Có người dựa vào chữ ngã mà cho rằng Đức Phật kiêu ngạo, hay còn có ngã thì làm sao thành Phật? Mặc dù, duy ngã đã được giải thích nhiều nhưng vẫn còn chưa thỏa đáng. Thật ra câu “duy ngã độc tôn” nhằm thần thánh hóa cho một ý nghĩa triết học nào đó hơn là giá trị lịch sửLịch sử đã cho chúng ta biết, khi Thái tử chào đời chưa chắc Ngài sẽ đi tu, vì tiên A Tư Đà (Asita) tiên đoán, có hai con đường để Thái tử lựa chọn: “Ở đời làm chuyển luân thánh vươngxuất gia làm Phật”. Do đó, chúng ta có thể thấy rằng, về mặt hiện thựcThái tử đã sinh ra đời cũng bình thường như bao nhiêu đứa trẻ sơ sinh khác, và như thế sẽ không thể cất được tiếng nói vào lúc mới sinh ra. Vậy, chúng ta có thể đặt vấn đề là, vì sao câu ấy được nêu trong các kinh? Có từ thời nào? Nó mang ý nghĩa gì? Và, đó cũng là điều nghi vấn về sự mâu thuẫn giữa lịch sử và triết lý Phật giáo.

Tác giả cho rằng, câu “Duy ngã độc tôn” có thể được thêm vào trong những trường hợp sau: Một là sau sự kiện thành đạo vĩ đại của Đức Phật, được người đương thời tôn xưng dệt nên sự kiện siêu phàm đó; Hai, sau khi Đức Phật Niết Bàn, hàng đệ tử biên tập kinh điển đã thêm vào, nhằm đề cao nhân cách của một bậc vĩ nhân phải khác với con người trần thế; Ba, tư tưởng Đại thừa đã đạt đến trình độ cao, đưa ra triết lý Phật tính bình đẳng trong tất cả chúng sanh. Và, tác giả thấy ý nghĩa thứ ba là làm nổi bậc nhất trong cụm từ “Duy ngã độc tôn”.

Như chúng ta đã biết, quan điểm đạo Phật là vô ngã, mọi sự vật hiện hữu đều không thật có cái ta. Đây là quan niệm thời kỳ đầu của Phật giáo (Sơ kỳ Phật giáo). Đức Phật đã giác ngộ được cuộc đời vô thường, không có gì tồn tại mãi mãi, kể cả thân năm uẩn này, nên Ngài đã quyết định từ bỏ mọi thứ để tìm ra chân lý. Và mục đích cuối cùng là Niết Bàn với điều kiện giải quyết tận gốc tính chấp ngã đạt đến vô ngã, lập nên quan điểm vô ngã là Niết Bàn.

Nhưng đến giai đoạn Phật giáo Đại thừa phát triển thì các vấn đề được mở rộng thêm là: Vô ngã chưa phải là điểm dừng, chưa phải mục đích tối thượngVì vậyquan niệm của Đại thừa vượt qua định kiến thông thường về học thuyết vô ngã, vì vô ngã chưa phải thật là Niết Bànvô ngã chỉ là tiền đề quan trọng để đạt đến Niết BànKinh Đại Bát Niết Bàn cho rằng, Thường - Lạc – Ngã - Tịnh mới là thật nghĩa của Niết Bàn.

Vì vậy, cái gì được gọi là Ngã thì phải đáp ứng với các yếu tố: Thường nhất bất biến, không do yếu tố khác để tồn tạitự tại tự chủ, vượt ngoài đối đãi. Do đó, sau vô ngã không phải là không có gì, nếu chân không mà không diệu hữu thì không có tác dụng. Vậy, sau vô ngã là chơn ngã, thật ngã, chỉ cho pháp thân thường trú, chơn thật, không biến đổi, nhưng tuyệt nhiên không phải là cái tồn tại như hữu ngã luận, bởi cái hữu ngã đã được phê phán và phá vỡ từ ban đầu bằng thuyết vô ngãĐức Phật phủ nhận học thuyết hữu ngã và linh hồn, bởi chưa vô ngãcon người sẽ bám chấp vào ngã và linh hồn để hy cầu sự tồn tại sau khi chết, đó là học thuyết của Bà La Môn, Upanishad, tức là có một linh hồn bất tử, là một ảo tưởng.

 

Chữ ngã ở đây không mang nghĩa cái tôi cái ta giả huyễn, hư thuyết mà nó là chân ngãthật ngã, vì chỉ có thật ngã mới là cái siêu xuất trong trời người, là cái độc tôn. Kinh Đại Bát Biết Bàn nói rằng: “Vô ngã là sanh tử, ngã là Như Lai”. Vì vô ngã là tiền đề vào Niết Bàn, phải vượt qua các khái niệm về vô ngã, phá vỡ bức màn the “vô ngã” thì chúng ta mới thật đạt được sự giải thoát rốt ráo, tức Niết Bàn. Đây là ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ được cụm từ “Duy ngã độc tôn”.

Qua đó, chúng ta nhận thấy, từ duy ngã có nhiều ý nghĩa:

1. Duy ngã là chỉ có sự giác ngộ, bởi giác ngộ là thành Phật. Đó là sự tối tôn ở đời.

2. Duy ngã là chỉ có chân ngã, là cái diệu hữu mầu nhiệm, tức là khi đạt được chân không rốt ráo

3. Duy ngã là chỉ có Phật tánh trong mỗi chúng ta ‘là tôn quý nhất’, vì mỗi chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành Phật.

4. Duy ngã là pháp thân thường trụ, là bản thể của ba đời chư Phật và của tất cả chúng sanh. Với ý nghĩa này nên, kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Ai thánĐức Phật đã nêu: “Ngã” chính là thật nghĩa của Phật, “Thường” chính là thật nghĩa của Pháp Thân, “Lạc” là thật nghĩa của Niết Bàn, “Tịnh” là thật nghĩa của Pháp.

Qua đó, duy ngã là một triết lý đặc thù, không phải mang nghĩa chỉ có ta (duy ngã) tức là chỉ có Đức Phật là trên hết. Đồng thờiduy ngã nghĩa là phải vượt qua mọi khái niệm định kiến từ thời Nguyên thủy về thuyết vô ngã, mở ra một chân trời mới về thuyết Phật tánh bình đẳng trong mỗi chúng sanh, xác định ý nghĩa pháp thân chân thật như một thực ngã hằng hữu, bất sanh bất diệt. Chính ý nghĩa này mà chữ duy ngã mới trở thành cái tối tôn tối thượng nhất của muôn loài.

Đức Phật đã đạt được chỗ bất sanh bất diệthay nói khác hơn là thành tựu sự bất tử (chân ngã hằng hữu) và chúng sanh ở chư thiên và loài người cũng có khả năng đạt được chỗ tối thượng này. Đó chính là thật nghĩa của của cụm từ “Duy ngã độc tôn”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1582)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1476)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1336)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1389)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1716)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1981)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2035)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1477)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1564)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1394)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2917)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1412)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1734)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2646)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1409)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1571)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1449)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1436)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1523)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2206)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1555)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1516)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1540)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1420)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1677)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1718)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2394)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1966)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1685)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1764)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1624)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1958)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1689)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1445)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1734)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1585)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1555)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1340)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1303)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant