Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)

30 Tháng Tám 202212:25(Xem: 1254)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)

walk-455903_1280-780x470

Chương trước chúng tôi đã tóm tắt duyên khởi bốn tội ba-la-di cộng thông của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, bốn tội còn lại của tỳ-kheo-ni chỉ là phụ, chúng tôi không bàn ở đây. Chương này tiếp tục luận bàn đến vấn đề sám hối tội ba-la-di ra sao. Chúng tôi nhắc lại, lý do đề tài này được thảo luận cũng bởi có độc giả chưa thể giải nghi từ bài viết đăng trên mạng điện toán. Bài viết này tác giả đã tỉ mẩn trích lục nhiều tài liệu với mục đích chứng minh phạm tội ba-la-di có thể sám hối và đề cao tinh thần cứu độ vị tha của nhà Phật.

Nhưng viết về đề tài nghiên cứu Phật học, không riêng gì tác giả bài viết nói trên mà còn nhiều học giả trong nước cũng ít ngờ tới là nguồn sử liệu kinh, luật, luận hiện còn như những bộ “hồ sơ vụ án” cồng kềnh đồ sộ, trong đó dấu vết “nhân chứng”, “vật chứng”, “lời khai”… đã bị sửa đổi bởi bàn tay của Phật giáo bộ phái; sau đó trải qua truyền thống lâu đời, văn bản lại bị biến dạng nghiêm trọng theo hệ tư tưởng Tiểu thừa đến Đại thừa, từ đó đúng sai khó phân định. Cho nên những nhà Phật học hàn lâm thế giới, khi nổ lực tìm hiểu đâu là giáo nghĩa từ Kim khẩu của Phật nói ra, bắt buộc họ phải đối chiếu tất cả các văn bản, xem chỗ nào giống nhau thì đó là giáo lý nguyên thủy. Chúng tôi sẽ theo phương pháp đó, vừa minh thị lại vấn đề, vừa chung đúc lại cuộc sống trong xã hội nhà chùa xưa và nay. Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi nói về ý nghĩa của từ “sám hối”.

I. Ý NGHĨA SÁM HỐI

1. Giải thích từ nguyên:

Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.

Vào thời kỳ đầu, những bản kinh Phạn cổ hay gọi Hồ bản được phiên dịch tại Trung Quốc, liên quan đến nghĩa sám hối chúng ta thấy chỉ dịch “hối quá 悔過” như Phật thuyết Xá-lợi-phất hối quá kinh,[1] hay Phật thuyết Văn-thù hối quá kinh.[2] Sau đó kinh Tạp A-hàm và Tăng nhất A-hàm dịch cả hai từ “hối quá 悔過” và “sám hối 懺悔”, vân vân. Và từ “phát lồ” (to utter and disclose), là tiết lộ, phơi bày, tức khi phạm tội liền nói ra, không che giấu. Nó đi chung với từ hối quásám hối. Ví dụ luật Tứ phần ghi: Nếu không chịu phát lồ sám hối thì tội chưa được diệt trừ.[3]

Trong Luật tạng cũng dịch từ “sám hối” rất nhiều như luật Ngũ phầnTăng-kỳTứ phầnThập tụng v.v… Riêng luật của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda) do Nghĩa Tịnh dịch, chúng ta thấy xuất hiện thưa thớt vài chỗ dịch là sám hối, còn lại ông đều phiên âm theo từ Phạn là “sám-ma 懺摩” (kṣama).

Theo Nghĩa Tịnh chỉ dịch âm từ kṣama thành sám-ma có hai lý do: Thứ nhất, nếu trong sinh hoạt thường nhật, chúng ta lỡ đụng chạm, xúc phạm, hay làm ai đó buồn, tổn thương… thì chúng ta dùng từ sám-ma (kṣama), nó có nghĩa: “cầu xin sự tha thứ của bạn” (beg your pardon), “xin đừng tức giận” (please do not be angry). Thứ hai, khi mình gây ra tội lỗi gì, có tâm xấu hổ (tàm quý 慚愧) không che giấu, thì xin người khác khoan dung, tha thứ cho mình. Và khi đối diện với người khác, người phạm tội nói lên rằng: “Tôi thú nhận hành vi phạm tội của mình với tâm chí thành” (chí tâm thuyết tội 至心說罪).

Do từ gốc tiếng Phạn phức tạp nên Nghĩa Tịnh dịch âm và có lời chú thích trong bản dịch. Ông giải thích thêm, từ sám-hối là cách dịch ghép, từ “sám” (cắt âm tiết của từ sám-ma, kṣama) ráp với “ăn năn” (hối 悔) của tiếng Trung Quốc, thành “sám-hối” là không đúng. Theo ông, chữ “sám” đứng trước mới có một âm tiết của tiếng Phạn không có nghĩa, nên từ “sám-hối” chỉ có thể định nghĩa theo chữ “hối”, tức hiểu là “ăn năn”. Mà “ăn năn” hàm nghĩa hối hận, cắn rứt việc mình làm, chứ chưa nói cho ai biết; như phạm tội còn giấu trong lòng, chưa báo chính quyền, chưa đi thú tội.[4]

Tóm lại, chúng ta tạm hiểu, từ hối quá, hay sám hối đều có nghĩa là sự ăn năn của những vi phạm. Đây là cách dịch cho người đọc dễ hiểu. Tuy nhiên đó chưa phải là cách thức sám hối của người xuất gia, vì người xuất gia khi phạm giới phải áp dụng hình thức sám-ma, nghĩa là luôn luôn phải nói rõ tội trạng mình đã phạm (thuyết tội) trước một tỳ-kheo thanh tịnh hay đối trước chúng Tăng thanh tịnh.

2. Thuyết tộihình thức sám hối của người xuất gia:

Thuật ngữ “chí tâm thuyết tội” theo nghĩa Phạn là āpatti-pratideśana; “āpatti” nghĩa là tội lỗi hoặc xúc phạm, “pratideśana” là thú nhận trước người khác.[5]

Thuyết tội như pháp cần hội đủ ba yếu tố hiện tiền: a). Hiện tiền nhân, đối tượng hướng đến để thuyết tội phải đủ túc số quy định và người phạm tội thuyết tội phải hiện diện, không có trường hợp vắng mặt; b). Hiện tiền sự, tội danh phải được xác định; người thuyết tội phải nói rõ vi phạm điều nào trong học xứ; c). Hiện tiền pháp, nghi thức tiến hành.

Trong luật Thanh văn, thuyết tội có ba hình thức: Tâm niệm, đối thú và Tăng pháp. Tâm niệm đối với các vi phạm nhẹ theo luật quy định; hoặc trường hợp chung quanh không có ai để hành pháp thuyết tội do đó tự thuyết bằng tâm niệm. Bởi vì, nếu phạm tội mà không phát lồ ngay trong ngày, để sang ngày khác thì phạm tội che giấu (phú tàng). Vì điều kiện khách quan, không thể phát lồ trong ngày, do đó tự thuyết tội bằng thủ tục tâm niệm. Đối thú, là đối trước một tỳ-kheo thanh tịnhthuyết tội. Tăng pháp, là đối trước Tăng. Bấy giờ tùy theo tội mà Tăng tác pháp Yết-ma loại nào cũng theo luật quy định. Sau khi thỉnh cầu thuyết tội, giới thể sẽ được phục hồi thanh tịnh.[6]

Qua cách thức trên chúng ta có thể suy đoán, việc sám hối nói cho người khác nghe có từ thời Phật, từ truyền thống văn hóa Ấn, như câu chuyện vua A-xà-thế (Ajātaśatru) sau khi giết hại vua cha, hồi tâm tĩnh trí, đối trước Phật sám hối (hối quá 悔過), chính là hình thức thuyết tội.[7] Ngày nay, chúng ta thấy tín đồ Cơ-đốc giáo (Christian) xưng tội trước Linh mục (The priest) phải chăng ảnh hưởng phần nào từ cách thức này.

Nhưng, luật Phật chế định luôn gắn kết với luật đời. Một tỳ-kheo phạm giới, xem mức độ phạm tộiliên hệ gì đến người bị hại, hay ảnh hưởng ra sao với đời sống xã hội xung quanh; nếu đạo đứcluật pháp thế gian đã không chấp nhận, thì Phật giáo phải xử án kịch tính hơn, trục xuất tỳ-kheo ấy ra khỏi Tăng đoàn. Vậy đối với tội ba-la-di nếu phạm có tha thứ được hay không? Như một số nước hiện nay vẫn duy trì mức án tử hình, mục đích tạo hình phạt răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng và nhằm giữ gìn an ninh cho xã hội. Cho nên ý nghĩa sám hối dành cho người tu dù từ bi cũng không thể thiếu công lýnghiêm minh.

II. PHẠM BA-LA-DI SÁM HỐI ĐƯỢC HAY KHÔNG?

1. Lược dẫn tư liệu từ bài viết trên mạng:

Tác giả nêu một số tư liệu kể tội ba-la-di có thể sám hối như sau:

Theo luật Ma-ha-tăng-kỳ quyển 1 (bản Việt dịch HT. Thích Phước Sơn): … Những tội đã phạm không chịu phát lồ sám hối, nên gọi là ba-la-di.

Kinh tạng Nikaya, Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp, kinh Phạm tội:… Phật dạy, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nếu phạm tội phải như pháp sám hối pháp ba-la-di.

Kinh Đại bát-niết-bàn, quyển thứ 10: Phạm bốn tội nặng và năm tội nghịch có thể sám hối.

Kinh Đại bảo tích, quyển thứ 90: Bồ-tát phạm ba-la-di thì nên đối trước mười vị tỳ-kheo thanh tịnh rồi dùng tâm chất trực mà ân trọng sám hối.[8]

Luật Ma-ha-tăng-kỳ quyển 26: Tăng tác pháp yết-ma cho học hối ba-la-di.

Pháp sám hối trong tác phẩm Một số vấn đề về giới luật (HT. Thích Phước Sơn biên soạn, 2010, tr. 127): Tỳ-kheo nào phạm tội ba-la-di, ngoại trừ tội giết người, mà có tâm tàm quýhối hậnquyết chí sửa chữa, bạch với Tăng chúng ngay sau khi phạm, thì Tăng chúng sẽ tập hợp ít nhất là 20 tỳ-kheo, bạch tứ yết-ma (một lần bạch, ba lần biểu quyếtban cho vị ấy pháp “Học hối ba-la-di” hay “Dữ học ba-la-di”. 

Cuối cùng thầy kể thêm: Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao của Đạo Tuyên biên soạn, chỉ đề cập đến việc sám hối tội dâm ba-la-di mà không đề xuất ba trọng tội còn lại. Đặc biệt, trong tác phẩm Tứ phần luật tỳ-kheo-ni sao, quyển hạ, ngài còn lưu ý rằng, pháp thức sám hối tội ba-la-di vẫn được phép tiến hành đối với tỳ-kheo-ni.

Những tư liệu mà tác giả dẫn chứng chúng tôi sẽ trình tự lý luậnđánh giá lại trong nội dung tiếp theo dưới đây.

2. Gánh nặng chứng minh:

Trong vấn đề sám hối tội ba-la-di, chúng tôi phân chia ra ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất vào thời kỳ Phật tại thế. Giai đoạn thứ hai là thời gian Phật giáo bộ pháigiai đoạn cuối cùng là bối cảnh xã hội hiện nay.

Thời kỳ Phật tại thế đầy đủ bằng chứng xác thực là không có quy định sám hối tội ba-la-di. Chúng ta hãy xem lại một “nghi án” kinh động thời ấy:

Trong luật Thập tụng (pp. 239b7 – 240a19), Tứ phần (pp. 824a7 – 825a11), Ngũ phần (pp. 180c22 – 181a28), Pāli: IX, 1-2, Căn bản ([bản Phạn] pp. 107, 4 seq.), Tăng-kỳ (p. 447b11-c2); kinh 37 trong Trung A-hàm (Madhyamāgama, T. 1, p. 478b) và Tăng chi bộ (Aṅguttaranikāya), phần VIII, kinh 20 (Uposatha) kể lại rằng:

Vào buổi sáng nọ, Tăng đoàn tập hợp hành lễ bố-tát, nhưng đức Phật không tụng đọc Prātimokṣa (Pāli: Pāṭimokkha, Ba-la-đề-mộc-xoa, Biệt giải thoát) mặc dù Ānanda đã nhiều lần cầu thỉnh đức Phật thuyết giới. Cuối cùng, đức Phật tuyên bố, trong hội chúng có tỳ-kheo không thanh tịnh. Maudgalyāyana (Mục-kiền-liên) dùng thần thông quảng đại của mình tìm kiếm tỳ-kheo nào không thanh tịnh và dẫn ông ta ra ngoài. Sau đó đức Phật tuyên bố, từ đây về sau Ngài sẽ không chủ trì buổi lễ bố-tát cũng như tụng đọc Prātimokṣa nữa, mà Tăng đoàn phải tự làm điều đó.

Kinh Trung A-hàm thuật, Đại Mục-kiền-liên lôi tỳ-kheo đó ra ngoài và nói: “Này người ngu si, hãy đi xa đi, đừng sống ở đây, không được trở lại hội họp với đại chúng tỳ-kheo, từ nay trở đi ông không phải là tỳ-kheo nữa.

Câu nói: “Đừng sống ở đây (mạc ư thử trụ 莫於此住)”, luật Tứ phần, Ngũ phần: Ngươi, đi ra khỏi đây, đi mất đi, ngươi chớ sống ở đây (汝, 出去滅去, 汝不應此中住). Pāli: natthi te bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāso, “ông không còn sống chung với các tỳ-kheo”. Tham chiếu các bản đều chép tôn giả Mục-kiền-liên trục xuất tỳ-kheo này ra khỏi Tăng. Sự kiện lịch sử đó cho đến nay không ai biết tỳ-kheo kia phạm tội gì, nhưng chắc chắc phạm tội ba-la-di mới bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn.

Câu chuyện trên rất trùng khớp với quy định của Phật chế trong giới ba-la-di: nếu tỳ-kheo (tỳ-kheo-ni) phạm ba-la-di thì không được sống chung. Sống chung, sinh hoạt chung, Pāli: saṃvāso, trong các bản Hán dịch: trú (trụ) 住. Còn không được sống chung, Pāli: asaṃvāsa, Hán dịch: Bất cộng trú 不共住.

Luật Pāli giải thích: Đồng nhất yết-ma, đồng nhất thuyết giới, cùng tu học gọi là sống chung. Không sống chung là ngược lại. Ngũ phần và Tứ phần định nghĩa tương tự.[9]

Luật Thập tụng và Căn bản định nghĩa: Không cùng tỳ-kheo tác pháp, như bạch yết-ma, bạch nhị, bạch tứ, bố-tát, tự tứ, không tính số 14, 20 người.[10]

chính Nghĩa Tịnh ghi trong cuốn nhật ký của mình nói rất rõ, phạm vào thiên tội đầu tiên (tội ba-la-di) không thể sám hối được.[11]

(Còn tiếp)

Mùa an cư Phật lịch 2566 (18 tháng 6 năm Nhâm Dần).
Cittacakkhu


[1] 佛說舍利弗悔過經, Śāriputra kṣamā sūtra, T. 24, No. 1492, An Thế Cao (Parthamasiris, người nước Parthia (An Tức) dịch vào đời Hậu Hán, khoảng thế kỷ thứ 2, A.D. 148-170.

[2] 佛說文殊悔過經, The Buddhabhāshita Mañjuśrī kṣamā sūtra, Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa) dịch đời Tây Tấn, A.D. 266 và 317.

[3] 四分律 22, T22, no. 1428, p. 716b7: 若不發露懺悔, 罪未除.

[4] Cf. 根本說一切有部毘奈耶 15, T23, no. 1442, p. 706a8; 南海寄歸內法傳 2, T54n2125, p. 217c15-22.

[5] 南海寄歸內法傳 2, p. 217c15-22.

[6] Cf. Tuệ Sỹ, Du-già Bồ-tát giới, 2015, p. 166-168.

[7] 長阿含經 17, T01, no. 1, p. 109b12.

[8] 大寶積經 90, T11, no. 310, p. 515c18-19: 復次舍利弗!若有菩薩犯波羅夷者,應對清淨十比丘前,以質直心殷重懺悔.

[9] 四分律 1, T22, no. 1428, p. 571c8; 彌沙塞部和醯五分律 1, T22, no. 1421, p. 4c23.

[10] 十誦律 1, T23, no. 1435, p. 2c19; 根本說一切有部毘奈耶 1, T23, no. 1442, p. 630c11.

[11] Nam hải ký quy nội pháp truyện 2, p. 217c13: Sơ thiên nhược phạm, sự bất khả trị 初篇若犯, 事不可治.

Xem:
– Phần I
– Phần III

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7602)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6136)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9998)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7107)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7339)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 7001)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9375)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5865)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7126)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6536)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6122)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7180)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14416)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20485)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9480)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7914)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8202)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7462)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9391)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7476)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7496)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7686)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9495)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8801)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7403)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7986)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7045)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7693)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9883)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8295)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8849)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7698)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8852)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8676)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8013)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9026)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9440)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8765)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8904)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7237)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9199)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8618)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7905)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9655)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10211)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8794)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8407)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7658)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9362)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7502)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15380)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7332)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8519)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12283)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7337)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11533)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8328)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8052)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7928)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8951)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant