Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (Phần I)

30 Tháng Tám 202212:18(Xem: 1175)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (Phần I)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối

walk-455903_1280-780x470

Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược. Hướng khác lưu chảy về Niết-bàn (Nirvāṇa), đây chỉ cho lớp người vượt thoát sinh tử, điều chỉnh ngã thức, chế ngự cảm xúc vị kỷ thô lậu.

Hướng chảy đầu tiên kiến trúc thành một xã hội thế tục, số đông nhận phận theo một thứ định mệnh dẫn dắt khôn lường bởi lòng ước muốn của tham, sân, si. Đôi khi chính lòng ham muốn thiếu kiểm soát đã tạo ra giông bão bất ngờ, hất tung cả số phận. Hoặc nói cách khác, một xã hội thế tục hấp dẫn với vỏ bọc bên ngoài diễm tuyệt, thật sự bên trong khổ đau, cạm bẫy, bất an… luôn rình rập con người. Dòng chảy thứ hai xây dựng một xã hội thu nhỏ, núp bóng trong rừng sâu, ẩn xa sau cổng viện, những con người mang chí nguyện theo đuổi đời sống tâm linh, giữ trọn lối sống nghèo khó và khiết tịnh. Nhưng trên con đường tìm đạo, với số ít tự mình giải thoát, vài cá nhân ưu việt, còn lại là những tâm hồn yếu đuối, bị chế ngự bởi thứ tội lỗi di truyền nguyên thủy, không thể diệt trừ bằng nổ lực tinh cần, dễ sa ngã trên con đường đạo. Để giúp họ trụ vững trên lộ trình tiến tu, những giới điều nghiêm khắc được quy chế. Tuy nhiên, giữ giớiphạm giớilẽ thường tình đối với những người ngã thức còn non nớt, bản lĩnh nội tại suy nhược, và đối với kẻ té ngã không đủ khả năng đứng dậy thì sự trợ lực của người khác là cần thiết, tức đức Thích Tôn phương tiện khai phóng một con đường, khi phạm tội cho họ sám hối, cho họ cơ hội làm lại cuộc đời.

Mới đây có một vị thầy hỏi chúng tôi, phạm bốn tội ba-la-di có thể sám hối được không? Vì thầy này đọc một bài viết trên mạng điện toán, nội dung gợi mở phạm bốn tội ba-la-di có thể sám hối được. Tôi xem qua bài viết, nhận thấy tác giả luận chứng rất tỉ mỉ nhưng có chỗ chưa rõ hoặc hiểu nhầm. Chúng tôi xin phép nương ý chính của tác giả, trình bày lại cho sáng tỏ vấn đề. Thật sự giáo pháp nhà Phật u huyền, không ai tự đắc chính mình thấu hiểu tận tường. Kiến thứctu chứng là hai phạm trù, người viết chưa hẳn là người giữ giới nghiêm mật, viết để cùng nhau học hỏi, viết để cùng nhau tu chỉnh lại mình.

I

1. Tội ba-la-di:

Tổng số điều khoản mà Phật quy chế cho chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni thọ trì trong các bộ luật ghi chép không giống nhau. Luật Tứ phần ghi, giới của tỳ-kheo là 250 giới, tỳ-kheo-ni 348 giới. Luật Ngũ phần: tỳ-kheo 251, tỳ-kheo-ni (theo Ngũ phần tỳ-kheo-ni giới bổn, T22n1423) 373, theo Quảng luật (T22n1421) 370. Luật Pāli: tỳ-kheo 227 giới, tỳ-kheo-ni 311 giới v.v… Trong đó nhóm tội ba-la-di là tội nặng nhất.

Về ngữ nghĩa từ “bà-la-di” (波羅夷, Skt. Pārājikā) phần lớn nhận định là nguồn gốc không rõ ràng. Định nghĩa theo luật Pāli, Vin. iii, 28: “Như người bị chặt đầu, không thể sống bằng cách ráp nối lại với thân.” Luật Tứ phần định nghĩa như luật Pāli. Căn bản Hữu bộ: Ba-la-thị-ca (波羅市迦), là tội cực trọng, là cái ác ghê gớm, cần phải hiềm hận… Nếu bí-sô vừa phạm liền chẳng phải sa-môn, chẳng phải con Thích-ca, mất tánh bí-sô, trái với tánh của Niết-bàn…, bị kẻ khác thắng, không thể cứu vớt được, như cây đa-la bị chặt ngọn không thể sống lại được, không thể phát triển.[1]

Hầu như luật bộ phái định nghĩa dài hay ngắn, ít hay nhiều đều giải thích gần giống nhau. Nhưng ý nghĩa dễ hiểu nhất của từ ba-la-di là cụm từ mà Nghĩa Tịnh dịch trong luật Căn bản: “Bị kẻ khác thắng (bị tha sở thắng 被他所勝)”, tức bị phiền não đánh bại, nghĩa này chúng ta thấy khá phổ biến trong các dịch phẩm của Huyền Trang như Bồ-tát giới bổn,[2] Tập dị môn túc luận[3] v.v… Ông dịch là “Tha thắng xứ 他勝處”, “Tha thắng tội 他勝罪”. Vậy tội ba-la-di của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni gồm những tội gì?

Về tỳ-kheo có 4 tội ba-la-di: 1. Học xứ bất tịnh hạnh (không được dâm dục); 2. Học xứ không cho mà lấy; 3. Học xứ đoạn nhân mạng; 4. Học xứ vọng ngữ nói mình đắc pháp thượng nhân.

Tỳ-kheo-ni có 8: Bốn học xứ đầu giống giới tỳ-kheo; học xứ thứ 5: xúc chạm thân nam; học xứ thứ 6: tám việc;[4] học xứ thứ 7: che giấu trọng tội; học xứ thứ 8: tùy thuận theo tỳ-kheo đã bị Tăng cử tội.

2. Hình thức phạm tội:

Trước khi chúng ta luận bàn đến chuyện phạm tội ba-la-di có thể sám hối được hay không, nghĩa là hiểu theo kiểu dân gian là được tha bổng, khoan hồng, hay giảm án… thì phải tìm hiểu yếu tố pháp lý, tình tiết vụ án, xem người phạm tội và mức độ “gây án” như thế nào.

(a). Tội đầu tiên, phạm hạnh bất tịnh:

Câu chuyện thứ nhất, tỳ-kheo Sudinna sau khi xuất gia, mẹ ruột muốn có cháu nối dõi tông đường, bèn ép ông về nhà hành hạnh bất tịnh với người vợ cũ. Lúc này Phật chưa chế giới. Sau đó Phật chế: Tỳ-kheo nào hành pháp dâm dục sẽ phạm ba-la-di.

Câu chuyện thứ hai là tỳ-kheo Bạt-xà Tử (theo luật Pāli nói là số đông các tỳ-kheo người Vajji ở Vesālī).[5] Tỳ-kheo này chán đời sống tịnh hạnh, trở về nhà cùng vợ cũ làm việc bất tịnh. Từ việc này, Phật chế: Tỳ-kheo nào không kham nổi đời sống tỳ-kheo (dubbalyaṃ anāvikatvā), không xả giới mà hành pháp dâm dục, phạm ba-la-di.

Sau khi Phật chế giới như vậy, có tỳ-kheo sống trong rừng, tự nghĩ là Phật cấm hành dâm với người nữ chứ không cấm với súc vật nên đã hành dâm với con vượn cái. Từ nguyên nhân này khiến Phật mới quy chế thêm, cấm quan hệ với người và cả súc sinh. Giới này đến đây đã thành định chế.

Nhưng con người yếu đuối vẫn là kẻ chiến bại trước phiền nãodục vọng, ngoại trừ bậc Thánh trí ra khỏi càn khôn. Câu chuyện cuối cùng một thời xa xưa đã làm kinh động trong cộng đồng Tăng lữ, gây ra sự tranh biện giữa các bộ phái, cũng liên quan đến vấn đề sám hối tội ba-la-di, và từ đây khiến cho các học giả Phật giáo Việt Nam gần đây nhầm lẫn là ba-la-di được sám hối toàn diện. Đó là sự kiện tỳ-kheo Nandi. Thầy này nổi tiếng tu tập thiền định, đi, đứng, nằm, ngồi đều trong trạng thái thiền. Luật kể, một hôm Nandi ngồi thiền trong rừng An-hoàn (andhavana), vì năng lực thiền định của thế tục không thể chiến thắng lửa dục, vừa xả thiền, bị thiên thần ma hóa làm cô gái đẹp dẫn dụ ông đến xác một con ngựa cái chết trong rừng, rồi cô ấy ẩn vào thân con ngựa, lúc này bị lửa dục thiêu đốt Nandi liền hành dâm nơi xác con ngựa.[6] Phật biết Nandi hối hận ăn năn và có tâm tha thiết không muốn bỏ đạo, Ngài mới dạy Tăng yết-ma trao pháp ba-la-di cho học pháp hành của sa-di (dữ học sa-di hành pháp 與學沙彌行法T23n1435_p0003a21║).[7] Đây là một hình thức khai mở cho phép sám hối. Chúng tôi sẽ bàn tiếp ở mục sau.

Luật Tăng-kỳ chép, giới ba-la-di đầu tiên được Phật chế tại thành Vaiśāli, sau giờ cơm trưa, vào ngày 12 nửa tháng thứ năm, mùa đông, sau 5 năm Phật thành đạo.[8]

(b) Tội thứ hai, không cho mà lấy:

Tỳ-kheo Dhaniya tìm cây để làm thất, tự ý chặt một số cây quý của nhà vua trồng, những loại cây này triều đình lưu trữ để tu sửa thành (devagahadārūni nagarapaṭisaṅkhārikāni). Ông là người đầu tiên quy phạm khiến Phật chế giới: tỳ-kheo nào lấy vật không cho, trị giá 5 tiền, hay trên 5 tiền sẽ phạm ba-la-di.[9]

(c) Tội thứ ba, đoạn nhân mạng:

Do các tỳ-kheo tu quán bất tịnh, khởi niệm nhờm tởm thân thể, bèn nhờ tỳ-kheo khác giết mình. Đức Phật mới chế giới, tỳ-kheo không được tự sát, hoặc chính mình giết người khác, hay sai bảo người giết… đều phạm tội ba-la-di.

(d). Tội thứ tư, vọng ngữ nói mình đắc pháp thượng nhân:

Nguyên nhân một thuở nọ, gặp năm mất mùa đói kém, khất thực khó khăn, một số tỳ-kheo bàn nhau tự bịa đặt khen ngợi lẫn nhau cho cư sĩ nghe, nói rằng tỳ-kheo này chứng đắc pháp, tỳ-kheo kia chứng đắc pháp, là đắc pháp của bậc thượng nhân, chỉ cho thiền, giải thoát, chánh định, chánh thọ, tri kiến… (Pāli, Vin. i. 91: uttaramanusadhammo nāma jhānaṃ vimokkho samādhi samāpatti ñāṇadassanaṃ…), mục đích để Phật tử cúng dường. Từ lý do này khiến đức Phật chế giới, tỳ-kheo nào thật không sở tri mà tự xưng tôi chứng đắc pháp thượng nhân… kẻ ấy phạm ba-la-di.

(Còn tiếp)

Mùa an cư Phật lịch 2566.
Cittacakkhu


[1] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da 1, T23, no. 1442, p. 630c6.

[2] 菩薩戒本1, T24, no. 1501, p. 1110b12.

[3] 阿毘達磨集異門足論 1, T26, no. 1536, p. 370a24.

[4] Tứ phần 22, p. 716a24: Tỳ-kheo-ni với tâm nhiễm ô biết người nam có tâm nhiễm ô, bằng lòng để cho (1) nắm tay, (2) nắm áo, (3) vào chỗ vắng, (4) cùng đứng, (5) cùng nói, (6) cùng đi, (7) thân dựa nhau, (8) hẹn nhau, là phạm ba-la-di.

[5] Vin. iii. 23, sambahulā vesālikā vajjiputtakā bhikkhū.

[6] Cf. Thập tụng 1, T23n1435, p. 2c29; Tứ phần 34, T22n1428, p. 809a8; Ngũ phần 28, T22n2421, tr. 182c10; Tăng-kì 26, T22n1425, p. 441a28.

[7] Thập tụng 1, p. 3b01, 56, p. 418b29, 57, p. 425b15.

[8] 摩訶僧祇律 2, p. 238a22.

[9] Tứ phần 1, p. 573b15; Ngũ phần 1, p. 6a7 v.v…

Xem:
– Phần II
– Phần III

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 257)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 639)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 931)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1359)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1176)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant