Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)

30 Tháng Tám 202212:25(Xem: 1253)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)

walk-455903_1280-780x470

Chương trước chúng tôi đã tóm tắt duyên khởi bốn tội ba-la-di cộng thông của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, bốn tội còn lại của tỳ-kheo-ni chỉ là phụ, chúng tôi không bàn ở đây. Chương này tiếp tục luận bàn đến vấn đề sám hối tội ba-la-di ra sao. Chúng tôi nhắc lại, lý do đề tài này được thảo luận cũng bởi có độc giả chưa thể giải nghi từ bài viết đăng trên mạng điện toán. Bài viết này tác giả đã tỉ mẩn trích lục nhiều tài liệu với mục đích chứng minh phạm tội ba-la-di có thể sám hối và đề cao tinh thần cứu độ vị tha của nhà Phật.

Nhưng viết về đề tài nghiên cứu Phật học, không riêng gì tác giả bài viết nói trên mà còn nhiều học giả trong nước cũng ít ngờ tới là nguồn sử liệu kinh, luật, luận hiện còn như những bộ “hồ sơ vụ án” cồng kềnh đồ sộ, trong đó dấu vết “nhân chứng”, “vật chứng”, “lời khai”… đã bị sửa đổi bởi bàn tay của Phật giáo bộ phái; sau đó trải qua truyền thống lâu đời, văn bản lại bị biến dạng nghiêm trọng theo hệ tư tưởng Tiểu thừa đến Đại thừa, từ đó đúng sai khó phân định. Cho nên những nhà Phật học hàn lâm thế giới, khi nổ lực tìm hiểu đâu là giáo nghĩa từ Kim khẩu của Phật nói ra, bắt buộc họ phải đối chiếu tất cả các văn bản, xem chỗ nào giống nhau thì đó là giáo lý nguyên thủy. Chúng tôi sẽ theo phương pháp đó, vừa minh thị lại vấn đề, vừa chung đúc lại cuộc sống trong xã hội nhà chùa xưa và nay. Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi nói về ý nghĩa của từ “sám hối”.

I. Ý NGHĨA SÁM HỐI

1. Giải thích từ nguyên:

Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.

Vào thời kỳ đầu, những bản kinh Phạn cổ hay gọi Hồ bản được phiên dịch tại Trung Quốc, liên quan đến nghĩa sám hối chúng ta thấy chỉ dịch “hối quá 悔過” như Phật thuyết Xá-lợi-phất hối quá kinh,[1] hay Phật thuyết Văn-thù hối quá kinh.[2] Sau đó kinh Tạp A-hàm và Tăng nhất A-hàm dịch cả hai từ “hối quá 悔過” và “sám hối 懺悔”, vân vân. Và từ “phát lồ” (to utter and disclose), là tiết lộ, phơi bày, tức khi phạm tội liền nói ra, không che giấu. Nó đi chung với từ hối quásám hối. Ví dụ luật Tứ phần ghi: Nếu không chịu phát lồ sám hối thì tội chưa được diệt trừ.[3]

Trong Luật tạng cũng dịch từ “sám hối” rất nhiều như luật Ngũ phầnTăng-kỳTứ phầnThập tụng v.v… Riêng luật của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda) do Nghĩa Tịnh dịch, chúng ta thấy xuất hiện thưa thớt vài chỗ dịch là sám hối, còn lại ông đều phiên âm theo từ Phạn là “sám-ma 懺摩” (kṣama).

Theo Nghĩa Tịnh chỉ dịch âm từ kṣama thành sám-ma có hai lý do: Thứ nhất, nếu trong sinh hoạt thường nhật, chúng ta lỡ đụng chạm, xúc phạm, hay làm ai đó buồn, tổn thương… thì chúng ta dùng từ sám-ma (kṣama), nó có nghĩa: “cầu xin sự tha thứ của bạn” (beg your pardon), “xin đừng tức giận” (please do not be angry). Thứ hai, khi mình gây ra tội lỗi gì, có tâm xấu hổ (tàm quý 慚愧) không che giấu, thì xin người khác khoan dung, tha thứ cho mình. Và khi đối diện với người khác, người phạm tội nói lên rằng: “Tôi thú nhận hành vi phạm tội của mình với tâm chí thành” (chí tâm thuyết tội 至心說罪).

Do từ gốc tiếng Phạn phức tạp nên Nghĩa Tịnh dịch âm và có lời chú thích trong bản dịch. Ông giải thích thêm, từ sám-hối là cách dịch ghép, từ “sám” (cắt âm tiết của từ sám-ma, kṣama) ráp với “ăn năn” (hối 悔) của tiếng Trung Quốc, thành “sám-hối” là không đúng. Theo ông, chữ “sám” đứng trước mới có một âm tiết của tiếng Phạn không có nghĩa, nên từ “sám-hối” chỉ có thể định nghĩa theo chữ “hối”, tức hiểu là “ăn năn”. Mà “ăn năn” hàm nghĩa hối hận, cắn rứt việc mình làm, chứ chưa nói cho ai biết; như phạm tội còn giấu trong lòng, chưa báo chính quyền, chưa đi thú tội.[4]

Tóm lại, chúng ta tạm hiểu, từ hối quá, hay sám hối đều có nghĩa là sự ăn năn của những vi phạm. Đây là cách dịch cho người đọc dễ hiểu. Tuy nhiên đó chưa phải là cách thức sám hối của người xuất gia, vì người xuất gia khi phạm giới phải áp dụng hình thức sám-ma, nghĩa là luôn luôn phải nói rõ tội trạng mình đã phạm (thuyết tội) trước một tỳ-kheo thanh tịnh hay đối trước chúng Tăng thanh tịnh.

2. Thuyết tộihình thức sám hối của người xuất gia:

Thuật ngữ “chí tâm thuyết tội” theo nghĩa Phạn là āpatti-pratideśana; “āpatti” nghĩa là tội lỗi hoặc xúc phạm, “pratideśana” là thú nhận trước người khác.[5]

Thuyết tội như pháp cần hội đủ ba yếu tố hiện tiền: a). Hiện tiền nhân, đối tượng hướng đến để thuyết tội phải đủ túc số quy định và người phạm tội thuyết tội phải hiện diện, không có trường hợp vắng mặt; b). Hiện tiền sự, tội danh phải được xác định; người thuyết tội phải nói rõ vi phạm điều nào trong học xứ; c). Hiện tiền pháp, nghi thức tiến hành.

Trong luật Thanh văn, thuyết tội có ba hình thức: Tâm niệm, đối thú và Tăng pháp. Tâm niệm đối với các vi phạm nhẹ theo luật quy định; hoặc trường hợp chung quanh không có ai để hành pháp thuyết tội do đó tự thuyết bằng tâm niệm. Bởi vì, nếu phạm tội mà không phát lồ ngay trong ngày, để sang ngày khác thì phạm tội che giấu (phú tàng). Vì điều kiện khách quan, không thể phát lồ trong ngày, do đó tự thuyết tội bằng thủ tục tâm niệm. Đối thú, là đối trước một tỳ-kheo thanh tịnhthuyết tội. Tăng pháp, là đối trước Tăng. Bấy giờ tùy theo tội mà Tăng tác pháp Yết-ma loại nào cũng theo luật quy định. Sau khi thỉnh cầu thuyết tội, giới thể sẽ được phục hồi thanh tịnh.[6]

Qua cách thức trên chúng ta có thể suy đoán, việc sám hối nói cho người khác nghe có từ thời Phật, từ truyền thống văn hóa Ấn, như câu chuyện vua A-xà-thế (Ajātaśatru) sau khi giết hại vua cha, hồi tâm tĩnh trí, đối trước Phật sám hối (hối quá 悔過), chính là hình thức thuyết tội.[7] Ngày nay, chúng ta thấy tín đồ Cơ-đốc giáo (Christian) xưng tội trước Linh mục (The priest) phải chăng ảnh hưởng phần nào từ cách thức này.

Nhưng, luật Phật chế định luôn gắn kết với luật đời. Một tỳ-kheo phạm giới, xem mức độ phạm tộiliên hệ gì đến người bị hại, hay ảnh hưởng ra sao với đời sống xã hội xung quanh; nếu đạo đứcluật pháp thế gian đã không chấp nhận, thì Phật giáo phải xử án kịch tính hơn, trục xuất tỳ-kheo ấy ra khỏi Tăng đoàn. Vậy đối với tội ba-la-di nếu phạm có tha thứ được hay không? Như một số nước hiện nay vẫn duy trì mức án tử hình, mục đích tạo hình phạt răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng và nhằm giữ gìn an ninh cho xã hội. Cho nên ý nghĩa sám hối dành cho người tu dù từ bi cũng không thể thiếu công lýnghiêm minh.

II. PHẠM BA-LA-DI SÁM HỐI ĐƯỢC HAY KHÔNG?

1. Lược dẫn tư liệu từ bài viết trên mạng:

Tác giả nêu một số tư liệu kể tội ba-la-di có thể sám hối như sau:

Theo luật Ma-ha-tăng-kỳ quyển 1 (bản Việt dịch HT. Thích Phước Sơn): … Những tội đã phạm không chịu phát lồ sám hối, nên gọi là ba-la-di.

Kinh tạng Nikaya, Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp, kinh Phạm tội:… Phật dạy, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nếu phạm tội phải như pháp sám hối pháp ba-la-di.

Kinh Đại bát-niết-bàn, quyển thứ 10: Phạm bốn tội nặng và năm tội nghịch có thể sám hối.

Kinh Đại bảo tích, quyển thứ 90: Bồ-tát phạm ba-la-di thì nên đối trước mười vị tỳ-kheo thanh tịnh rồi dùng tâm chất trực mà ân trọng sám hối.[8]

Luật Ma-ha-tăng-kỳ quyển 26: Tăng tác pháp yết-ma cho học hối ba-la-di.

Pháp sám hối trong tác phẩm Một số vấn đề về giới luật (HT. Thích Phước Sơn biên soạn, 2010, tr. 127): Tỳ-kheo nào phạm tội ba-la-di, ngoại trừ tội giết người, mà có tâm tàm quýhối hậnquyết chí sửa chữa, bạch với Tăng chúng ngay sau khi phạm, thì Tăng chúng sẽ tập hợp ít nhất là 20 tỳ-kheo, bạch tứ yết-ma (một lần bạch, ba lần biểu quyếtban cho vị ấy pháp “Học hối ba-la-di” hay “Dữ học ba-la-di”. 

Cuối cùng thầy kể thêm: Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao của Đạo Tuyên biên soạn, chỉ đề cập đến việc sám hối tội dâm ba-la-di mà không đề xuất ba trọng tội còn lại. Đặc biệt, trong tác phẩm Tứ phần luật tỳ-kheo-ni sao, quyển hạ, ngài còn lưu ý rằng, pháp thức sám hối tội ba-la-di vẫn được phép tiến hành đối với tỳ-kheo-ni.

Những tư liệu mà tác giả dẫn chứng chúng tôi sẽ trình tự lý luậnđánh giá lại trong nội dung tiếp theo dưới đây.

2. Gánh nặng chứng minh:

Trong vấn đề sám hối tội ba-la-di, chúng tôi phân chia ra ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất vào thời kỳ Phật tại thế. Giai đoạn thứ hai là thời gian Phật giáo bộ pháigiai đoạn cuối cùng là bối cảnh xã hội hiện nay.

Thời kỳ Phật tại thế đầy đủ bằng chứng xác thực là không có quy định sám hối tội ba-la-di. Chúng ta hãy xem lại một “nghi án” kinh động thời ấy:

Trong luật Thập tụng (pp. 239b7 – 240a19), Tứ phần (pp. 824a7 – 825a11), Ngũ phần (pp. 180c22 – 181a28), Pāli: IX, 1-2, Căn bản ([bản Phạn] pp. 107, 4 seq.), Tăng-kỳ (p. 447b11-c2); kinh 37 trong Trung A-hàm (Madhyamāgama, T. 1, p. 478b) và Tăng chi bộ (Aṅguttaranikāya), phần VIII, kinh 20 (Uposatha) kể lại rằng:

Vào buổi sáng nọ, Tăng đoàn tập hợp hành lễ bố-tát, nhưng đức Phật không tụng đọc Prātimokṣa (Pāli: Pāṭimokkha, Ba-la-đề-mộc-xoa, Biệt giải thoát) mặc dù Ānanda đã nhiều lần cầu thỉnh đức Phật thuyết giới. Cuối cùng, đức Phật tuyên bố, trong hội chúng có tỳ-kheo không thanh tịnh. Maudgalyāyana (Mục-kiền-liên) dùng thần thông quảng đại của mình tìm kiếm tỳ-kheo nào không thanh tịnh và dẫn ông ta ra ngoài. Sau đó đức Phật tuyên bố, từ đây về sau Ngài sẽ không chủ trì buổi lễ bố-tát cũng như tụng đọc Prātimokṣa nữa, mà Tăng đoàn phải tự làm điều đó.

Kinh Trung A-hàm thuật, Đại Mục-kiền-liên lôi tỳ-kheo đó ra ngoài và nói: “Này người ngu si, hãy đi xa đi, đừng sống ở đây, không được trở lại hội họp với đại chúng tỳ-kheo, từ nay trở đi ông không phải là tỳ-kheo nữa.

Câu nói: “Đừng sống ở đây (mạc ư thử trụ 莫於此住)”, luật Tứ phần, Ngũ phần: Ngươi, đi ra khỏi đây, đi mất đi, ngươi chớ sống ở đây (汝, 出去滅去, 汝不應此中住). Pāli: natthi te bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāso, “ông không còn sống chung với các tỳ-kheo”. Tham chiếu các bản đều chép tôn giả Mục-kiền-liên trục xuất tỳ-kheo này ra khỏi Tăng. Sự kiện lịch sử đó cho đến nay không ai biết tỳ-kheo kia phạm tội gì, nhưng chắc chắc phạm tội ba-la-di mới bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn.

Câu chuyện trên rất trùng khớp với quy định của Phật chế trong giới ba-la-di: nếu tỳ-kheo (tỳ-kheo-ni) phạm ba-la-di thì không được sống chung. Sống chung, sinh hoạt chung, Pāli: saṃvāso, trong các bản Hán dịch: trú (trụ) 住. Còn không được sống chung, Pāli: asaṃvāsa, Hán dịch: Bất cộng trú 不共住.

Luật Pāli giải thích: Đồng nhất yết-ma, đồng nhất thuyết giới, cùng tu học gọi là sống chung. Không sống chung là ngược lại. Ngũ phần và Tứ phần định nghĩa tương tự.[9]

Luật Thập tụng và Căn bản định nghĩa: Không cùng tỳ-kheo tác pháp, như bạch yết-ma, bạch nhị, bạch tứ, bố-tát, tự tứ, không tính số 14, 20 người.[10]

chính Nghĩa Tịnh ghi trong cuốn nhật ký của mình nói rất rõ, phạm vào thiên tội đầu tiên (tội ba-la-di) không thể sám hối được.[11]

(Còn tiếp)

Mùa an cư Phật lịch 2566 (18 tháng 6 năm Nhâm Dần).
Cittacakkhu


[1] 佛說舍利弗悔過經, Śāriputra kṣamā sūtra, T. 24, No. 1492, An Thế Cao (Parthamasiris, người nước Parthia (An Tức) dịch vào đời Hậu Hán, khoảng thế kỷ thứ 2, A.D. 148-170.

[2] 佛說文殊悔過經, The Buddhabhāshita Mañjuśrī kṣamā sūtra, Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa) dịch đời Tây Tấn, A.D. 266 và 317.

[3] 四分律 22, T22, no. 1428, p. 716b7: 若不發露懺悔, 罪未除.

[4] Cf. 根本說一切有部毘奈耶 15, T23, no. 1442, p. 706a8; 南海寄歸內法傳 2, T54n2125, p. 217c15-22.

[5] 南海寄歸內法傳 2, p. 217c15-22.

[6] Cf. Tuệ Sỹ, Du-già Bồ-tát giới, 2015, p. 166-168.

[7] 長阿含經 17, T01, no. 1, p. 109b12.

[8] 大寶積經 90, T11, no. 310, p. 515c18-19: 復次舍利弗!若有菩薩犯波羅夷者,應對清淨十比丘前,以質直心殷重懺悔.

[9] 四分律 1, T22, no. 1428, p. 571c8; 彌沙塞部和醯五分律 1, T22, no. 1421, p. 4c23.

[10] 十誦律 1, T23, no. 1435, p. 2c19; 根本說一切有部毘奈耶 1, T23, no. 1442, p. 630c11.

[11] Nam hải ký quy nội pháp truyện 2, p. 217c13: Sơ thiên nhược phạm, sự bất khả trị 初篇若犯, 事不可治.

Xem:
– Phần I
– Phần III

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3881)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5517)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10615)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6156)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9434)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6483)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6030)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7539)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7369)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5259)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8174)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5983)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9704)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7438)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7498)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6297)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5367)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5926)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5710)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3998)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5750)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4135)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7583)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5765)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 22039)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5674)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7137)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5067)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6477)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5860)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5037)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7083)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6073)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5603)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5923)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6052)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6880)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6457)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6108)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6539)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6224)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6420)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5641)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6947)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4593)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7823)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6079)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7329)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7763)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5532)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5173)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5716)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5565)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5553)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5045)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4314)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6107)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5657)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6316)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant