Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)

30 Tháng Tám 202212:25(Xem: 1255)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)

walk-455903_1280-780x470

Chương trước chúng tôi đã tóm tắt duyên khởi bốn tội ba-la-di cộng thông của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, bốn tội còn lại của tỳ-kheo-ni chỉ là phụ, chúng tôi không bàn ở đây. Chương này tiếp tục luận bàn đến vấn đề sám hối tội ba-la-di ra sao. Chúng tôi nhắc lại, lý do đề tài này được thảo luận cũng bởi có độc giả chưa thể giải nghi từ bài viết đăng trên mạng điện toán. Bài viết này tác giả đã tỉ mẩn trích lục nhiều tài liệu với mục đích chứng minh phạm tội ba-la-di có thể sám hối và đề cao tinh thần cứu độ vị tha của nhà Phật.

Nhưng viết về đề tài nghiên cứu Phật học, không riêng gì tác giả bài viết nói trên mà còn nhiều học giả trong nước cũng ít ngờ tới là nguồn sử liệu kinh, luật, luận hiện còn như những bộ “hồ sơ vụ án” cồng kềnh đồ sộ, trong đó dấu vết “nhân chứng”, “vật chứng”, “lời khai”… đã bị sửa đổi bởi bàn tay của Phật giáo bộ phái; sau đó trải qua truyền thống lâu đời, văn bản lại bị biến dạng nghiêm trọng theo hệ tư tưởng Tiểu thừa đến Đại thừa, từ đó đúng sai khó phân định. Cho nên những nhà Phật học hàn lâm thế giới, khi nổ lực tìm hiểu đâu là giáo nghĩa từ Kim khẩu của Phật nói ra, bắt buộc họ phải đối chiếu tất cả các văn bản, xem chỗ nào giống nhau thì đó là giáo lý nguyên thủy. Chúng tôi sẽ theo phương pháp đó, vừa minh thị lại vấn đề, vừa chung đúc lại cuộc sống trong xã hội nhà chùa xưa và nay. Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi nói về ý nghĩa của từ “sám hối”.

I. Ý NGHĨA SÁM HỐI

1. Giải thích từ nguyên:

Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.

Vào thời kỳ đầu, những bản kinh Phạn cổ hay gọi Hồ bản được phiên dịch tại Trung Quốc, liên quan đến nghĩa sám hối chúng ta thấy chỉ dịch “hối quá 悔過” như Phật thuyết Xá-lợi-phất hối quá kinh,[1] hay Phật thuyết Văn-thù hối quá kinh.[2] Sau đó kinh Tạp A-hàm và Tăng nhất A-hàm dịch cả hai từ “hối quá 悔過” và “sám hối 懺悔”, vân vân. Và từ “phát lồ” (to utter and disclose), là tiết lộ, phơi bày, tức khi phạm tội liền nói ra, không che giấu. Nó đi chung với từ hối quásám hối. Ví dụ luật Tứ phần ghi: Nếu không chịu phát lồ sám hối thì tội chưa được diệt trừ.[3]

Trong Luật tạng cũng dịch từ “sám hối” rất nhiều như luật Ngũ phầnTăng-kỳTứ phầnThập tụng v.v… Riêng luật của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda) do Nghĩa Tịnh dịch, chúng ta thấy xuất hiện thưa thớt vài chỗ dịch là sám hối, còn lại ông đều phiên âm theo từ Phạn là “sám-ma 懺摩” (kṣama).

Theo Nghĩa Tịnh chỉ dịch âm từ kṣama thành sám-ma có hai lý do: Thứ nhất, nếu trong sinh hoạt thường nhật, chúng ta lỡ đụng chạm, xúc phạm, hay làm ai đó buồn, tổn thương… thì chúng ta dùng từ sám-ma (kṣama), nó có nghĩa: “cầu xin sự tha thứ của bạn” (beg your pardon), “xin đừng tức giận” (please do not be angry). Thứ hai, khi mình gây ra tội lỗi gì, có tâm xấu hổ (tàm quý 慚愧) không che giấu, thì xin người khác khoan dung, tha thứ cho mình. Và khi đối diện với người khác, người phạm tội nói lên rằng: “Tôi thú nhận hành vi phạm tội của mình với tâm chí thành” (chí tâm thuyết tội 至心說罪).

Do từ gốc tiếng Phạn phức tạp nên Nghĩa Tịnh dịch âm và có lời chú thích trong bản dịch. Ông giải thích thêm, từ sám-hối là cách dịch ghép, từ “sám” (cắt âm tiết của từ sám-ma, kṣama) ráp với “ăn năn” (hối 悔) của tiếng Trung Quốc, thành “sám-hối” là không đúng. Theo ông, chữ “sám” đứng trước mới có một âm tiết của tiếng Phạn không có nghĩa, nên từ “sám-hối” chỉ có thể định nghĩa theo chữ “hối”, tức hiểu là “ăn năn”. Mà “ăn năn” hàm nghĩa hối hận, cắn rứt việc mình làm, chứ chưa nói cho ai biết; như phạm tội còn giấu trong lòng, chưa báo chính quyền, chưa đi thú tội.[4]

Tóm lại, chúng ta tạm hiểu, từ hối quá, hay sám hối đều có nghĩa là sự ăn năn của những vi phạm. Đây là cách dịch cho người đọc dễ hiểu. Tuy nhiên đó chưa phải là cách thức sám hối của người xuất gia, vì người xuất gia khi phạm giới phải áp dụng hình thức sám-ma, nghĩa là luôn luôn phải nói rõ tội trạng mình đã phạm (thuyết tội) trước một tỳ-kheo thanh tịnh hay đối trước chúng Tăng thanh tịnh.

2. Thuyết tộihình thức sám hối của người xuất gia:

Thuật ngữ “chí tâm thuyết tội” theo nghĩa Phạn là āpatti-pratideśana; “āpatti” nghĩa là tội lỗi hoặc xúc phạm, “pratideśana” là thú nhận trước người khác.[5]

Thuyết tội như pháp cần hội đủ ba yếu tố hiện tiền: a). Hiện tiền nhân, đối tượng hướng đến để thuyết tội phải đủ túc số quy định và người phạm tội thuyết tội phải hiện diện, không có trường hợp vắng mặt; b). Hiện tiền sự, tội danh phải được xác định; người thuyết tội phải nói rõ vi phạm điều nào trong học xứ; c). Hiện tiền pháp, nghi thức tiến hành.

Trong luật Thanh văn, thuyết tội có ba hình thức: Tâm niệm, đối thú và Tăng pháp. Tâm niệm đối với các vi phạm nhẹ theo luật quy định; hoặc trường hợp chung quanh không có ai để hành pháp thuyết tội do đó tự thuyết bằng tâm niệm. Bởi vì, nếu phạm tội mà không phát lồ ngay trong ngày, để sang ngày khác thì phạm tội che giấu (phú tàng). Vì điều kiện khách quan, không thể phát lồ trong ngày, do đó tự thuyết tội bằng thủ tục tâm niệm. Đối thú, là đối trước một tỳ-kheo thanh tịnhthuyết tội. Tăng pháp, là đối trước Tăng. Bấy giờ tùy theo tội mà Tăng tác pháp Yết-ma loại nào cũng theo luật quy định. Sau khi thỉnh cầu thuyết tội, giới thể sẽ được phục hồi thanh tịnh.[6]

Qua cách thức trên chúng ta có thể suy đoán, việc sám hối nói cho người khác nghe có từ thời Phật, từ truyền thống văn hóa Ấn, như câu chuyện vua A-xà-thế (Ajātaśatru) sau khi giết hại vua cha, hồi tâm tĩnh trí, đối trước Phật sám hối (hối quá 悔過), chính là hình thức thuyết tội.[7] Ngày nay, chúng ta thấy tín đồ Cơ-đốc giáo (Christian) xưng tội trước Linh mục (The priest) phải chăng ảnh hưởng phần nào từ cách thức này.

Nhưng, luật Phật chế định luôn gắn kết với luật đời. Một tỳ-kheo phạm giới, xem mức độ phạm tộiliên hệ gì đến người bị hại, hay ảnh hưởng ra sao với đời sống xã hội xung quanh; nếu đạo đứcluật pháp thế gian đã không chấp nhận, thì Phật giáo phải xử án kịch tính hơn, trục xuất tỳ-kheo ấy ra khỏi Tăng đoàn. Vậy đối với tội ba-la-di nếu phạm có tha thứ được hay không? Như một số nước hiện nay vẫn duy trì mức án tử hình, mục đích tạo hình phạt răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng và nhằm giữ gìn an ninh cho xã hội. Cho nên ý nghĩa sám hối dành cho người tu dù từ bi cũng không thể thiếu công lýnghiêm minh.

II. PHẠM BA-LA-DI SÁM HỐI ĐƯỢC HAY KHÔNG?

1. Lược dẫn tư liệu từ bài viết trên mạng:

Tác giả nêu một số tư liệu kể tội ba-la-di có thể sám hối như sau:

Theo luật Ma-ha-tăng-kỳ quyển 1 (bản Việt dịch HT. Thích Phước Sơn): … Những tội đã phạm không chịu phát lồ sám hối, nên gọi là ba-la-di.

Kinh tạng Nikaya, Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp, kinh Phạm tội:… Phật dạy, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nếu phạm tội phải như pháp sám hối pháp ba-la-di.

Kinh Đại bát-niết-bàn, quyển thứ 10: Phạm bốn tội nặng và năm tội nghịch có thể sám hối.

Kinh Đại bảo tích, quyển thứ 90: Bồ-tát phạm ba-la-di thì nên đối trước mười vị tỳ-kheo thanh tịnh rồi dùng tâm chất trực mà ân trọng sám hối.[8]

Luật Ma-ha-tăng-kỳ quyển 26: Tăng tác pháp yết-ma cho học hối ba-la-di.

Pháp sám hối trong tác phẩm Một số vấn đề về giới luật (HT. Thích Phước Sơn biên soạn, 2010, tr. 127): Tỳ-kheo nào phạm tội ba-la-di, ngoại trừ tội giết người, mà có tâm tàm quýhối hậnquyết chí sửa chữa, bạch với Tăng chúng ngay sau khi phạm, thì Tăng chúng sẽ tập hợp ít nhất là 20 tỳ-kheo, bạch tứ yết-ma (một lần bạch, ba lần biểu quyếtban cho vị ấy pháp “Học hối ba-la-di” hay “Dữ học ba-la-di”. 

Cuối cùng thầy kể thêm: Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao của Đạo Tuyên biên soạn, chỉ đề cập đến việc sám hối tội dâm ba-la-di mà không đề xuất ba trọng tội còn lại. Đặc biệt, trong tác phẩm Tứ phần luật tỳ-kheo-ni sao, quyển hạ, ngài còn lưu ý rằng, pháp thức sám hối tội ba-la-di vẫn được phép tiến hành đối với tỳ-kheo-ni.

Những tư liệu mà tác giả dẫn chứng chúng tôi sẽ trình tự lý luậnđánh giá lại trong nội dung tiếp theo dưới đây.

2. Gánh nặng chứng minh:

Trong vấn đề sám hối tội ba-la-di, chúng tôi phân chia ra ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất vào thời kỳ Phật tại thế. Giai đoạn thứ hai là thời gian Phật giáo bộ pháigiai đoạn cuối cùng là bối cảnh xã hội hiện nay.

Thời kỳ Phật tại thế đầy đủ bằng chứng xác thực là không có quy định sám hối tội ba-la-di. Chúng ta hãy xem lại một “nghi án” kinh động thời ấy:

Trong luật Thập tụng (pp. 239b7 – 240a19), Tứ phần (pp. 824a7 – 825a11), Ngũ phần (pp. 180c22 – 181a28), Pāli: IX, 1-2, Căn bản ([bản Phạn] pp. 107, 4 seq.), Tăng-kỳ (p. 447b11-c2); kinh 37 trong Trung A-hàm (Madhyamāgama, T. 1, p. 478b) và Tăng chi bộ (Aṅguttaranikāya), phần VIII, kinh 20 (Uposatha) kể lại rằng:

Vào buổi sáng nọ, Tăng đoàn tập hợp hành lễ bố-tát, nhưng đức Phật không tụng đọc Prātimokṣa (Pāli: Pāṭimokkha, Ba-la-đề-mộc-xoa, Biệt giải thoát) mặc dù Ānanda đã nhiều lần cầu thỉnh đức Phật thuyết giới. Cuối cùng, đức Phật tuyên bố, trong hội chúng có tỳ-kheo không thanh tịnh. Maudgalyāyana (Mục-kiền-liên) dùng thần thông quảng đại của mình tìm kiếm tỳ-kheo nào không thanh tịnh và dẫn ông ta ra ngoài. Sau đó đức Phật tuyên bố, từ đây về sau Ngài sẽ không chủ trì buổi lễ bố-tát cũng như tụng đọc Prātimokṣa nữa, mà Tăng đoàn phải tự làm điều đó.

Kinh Trung A-hàm thuật, Đại Mục-kiền-liên lôi tỳ-kheo đó ra ngoài và nói: “Này người ngu si, hãy đi xa đi, đừng sống ở đây, không được trở lại hội họp với đại chúng tỳ-kheo, từ nay trở đi ông không phải là tỳ-kheo nữa.

Câu nói: “Đừng sống ở đây (mạc ư thử trụ 莫於此住)”, luật Tứ phần, Ngũ phần: Ngươi, đi ra khỏi đây, đi mất đi, ngươi chớ sống ở đây (汝, 出去滅去, 汝不應此中住). Pāli: natthi te bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāso, “ông không còn sống chung với các tỳ-kheo”. Tham chiếu các bản đều chép tôn giả Mục-kiền-liên trục xuất tỳ-kheo này ra khỏi Tăng. Sự kiện lịch sử đó cho đến nay không ai biết tỳ-kheo kia phạm tội gì, nhưng chắc chắc phạm tội ba-la-di mới bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn.

Câu chuyện trên rất trùng khớp với quy định của Phật chế trong giới ba-la-di: nếu tỳ-kheo (tỳ-kheo-ni) phạm ba-la-di thì không được sống chung. Sống chung, sinh hoạt chung, Pāli: saṃvāso, trong các bản Hán dịch: trú (trụ) 住. Còn không được sống chung, Pāli: asaṃvāsa, Hán dịch: Bất cộng trú 不共住.

Luật Pāli giải thích: Đồng nhất yết-ma, đồng nhất thuyết giới, cùng tu học gọi là sống chung. Không sống chung là ngược lại. Ngũ phần và Tứ phần định nghĩa tương tự.[9]

Luật Thập tụng và Căn bản định nghĩa: Không cùng tỳ-kheo tác pháp, như bạch yết-ma, bạch nhị, bạch tứ, bố-tát, tự tứ, không tính số 14, 20 người.[10]

chính Nghĩa Tịnh ghi trong cuốn nhật ký của mình nói rất rõ, phạm vào thiên tội đầu tiên (tội ba-la-di) không thể sám hối được.[11]

(Còn tiếp)

Mùa an cư Phật lịch 2566 (18 tháng 6 năm Nhâm Dần).
Cittacakkhu


[1] 佛說舍利弗悔過經, Śāriputra kṣamā sūtra, T. 24, No. 1492, An Thế Cao (Parthamasiris, người nước Parthia (An Tức) dịch vào đời Hậu Hán, khoảng thế kỷ thứ 2, A.D. 148-170.

[2] 佛說文殊悔過經, The Buddhabhāshita Mañjuśrī kṣamā sūtra, Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa) dịch đời Tây Tấn, A.D. 266 và 317.

[3] 四分律 22, T22, no. 1428, p. 716b7: 若不發露懺悔, 罪未除.

[4] Cf. 根本說一切有部毘奈耶 15, T23, no. 1442, p. 706a8; 南海寄歸內法傳 2, T54n2125, p. 217c15-22.

[5] 南海寄歸內法傳 2, p. 217c15-22.

[6] Cf. Tuệ Sỹ, Du-già Bồ-tát giới, 2015, p. 166-168.

[7] 長阿含經 17, T01, no. 1, p. 109b12.

[8] 大寶積經 90, T11, no. 310, p. 515c18-19: 復次舍利弗!若有菩薩犯波羅夷者,應對清淨十比丘前,以質直心殷重懺悔.

[9] 四分律 1, T22, no. 1428, p. 571c8; 彌沙塞部和醯五分律 1, T22, no. 1421, p. 4c23.

[10] 十誦律 1, T23, no. 1435, p. 2c19; 根本說一切有部毘奈耶 1, T23, no. 1442, p. 630c11.

[11] Nam hải ký quy nội pháp truyện 2, p. 217c13: Sơ thiên nhược phạm, sự bất khả trị 初篇若犯, 事不可治.

Xem:
– Phần I
– Phần III

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8576)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5293)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5856)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7498)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6404)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5996)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4787)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5731)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5908)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6155)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6638)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5966)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7088)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6693)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4830)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4962)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7746)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9851)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5355)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6452)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5459)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5873)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6435)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5715)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6457)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7080)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6306)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10686)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6697)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6206)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6759)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6154)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6526)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5755)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7582)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6269)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9674)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4079)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6403)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4194)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4343)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4810)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5374)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5328)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5860)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6823)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5593)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4540)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5348)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5036)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4397)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6902)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4650)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8451)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7248)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8404)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7561)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant