Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

19 Tháng Mười Một 202205:35(Xem: 1538)
Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Nguyễn Thế Đăng

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

 

1/ Thế giới là môi trường thực hành hạnh Bồ tát

Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong chuyện tiền thân thứ nhất Chuyện Pháp Tối thượng (Kinh Tiểu Bộ III) như sau:

Này gia chủ: Chính vì mục đích loại bỏ các nghi nan ở đời, nhờ sự thực hành trọn vẹn mười hạnh Ba la mật trải vô lượng kiếp mà Ta chứng đắc Nhất thiết trí. Hãy cẩn thận lắng tai nghe, như thể các ông đang đổ tủy của sư tử vào một cái ống bằng vàng”.

Sau khi kể câu chuyện tiền kiếp, “Ngài nhận diện tiền thân như sau:

Trong thời ấy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si là Đề Bà Đạt Đatùy tùng của kẻ ấy là tùy tùng của Đề Bà Đạt Đa. Còn người chủ đoàn lữ hành hiền trí là Ta, và tùy tùng của người chủ đoàn lữ hành hiền trí là tùy tùng của đức Phật bây giờ vậy”.

Đối với một người sống với ý nguyện hoàn thiện cho mình và cho người khác thì mỗi cuộc đời, dầu thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều là những cơ hội để học tập và tiến bộ trên con đường đến sự hoàn thiện rốt ráo ấy.

“Loại bỏ các nghi nan” cho mình, đó là tu tập trí huệ. “Loại bỏ các nghi nan cho người khác (ở đời)”, đó là tâm từ bi. Trí huệ phối hợp với từ bi là con đường Bồ tát. Mười Ba la mật là Bố thíGiữ giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Trí huệPhương tiện, Nguyện, Lực, và Trí. Mười Ba la mật là trí huệ và từ bi để “tự giác, giác tha”, và khi nào đầy đủ, trọn vẹn thì thành Phật, “giác hạnh viên mãn”.

Trong tất cả các câu chuyện tiền thân dù khi làm người cao sang như làm vua, Đế Thíchcho đến người lái buôn, người cày ruộng…, thậm chí làm thú vật như nai, voi, khỉ, sư tử… bao giờ cũng cho thấy Bồ tát là người “khôn ngoan”, nhiều “phước đức” (vì thường làm vua loài ấy), và luôn luôn giúp đỡ, cứu giúp, bảo vệ loài chung quanh bằng sự khôn ngoan và phước đức của mình. Đó là trí huệ (khôn ngoan) và từ bi (cứu giúp), tự giác và giác tha, hai yếu tố song hành trên đường Bồ tát.

Thế giới này là môi trường để thực hành hạnh (hạnh: hành động) Bồ tát trải qua nhiều đời.

Chẳng hạn như chuyện số 37, Chuyện Con Chim Trĩ, bậc Đạo sư nhận diện tiền thân như sau:

Thời ấy, con voi là Mục Kiền Liên, con khỉ là Xá Lợi Phất và con chim trĩ là Ta vậy”.

Những nhân duyên thầy trò và các mối liên hệ khác, dù ở trong các loài vật, cũng đã có sự nối kết từ rất xa xưa. Bồ tát là người mở rộng sự nối kết, từ những liên hệ nhỏ, đến nối kết với vũ trụ và chúng sanh bằng trí huệ và từ bi.

2/ Thực hành trí huệtừ bi và công đức

Trí huệ:

Trí huệ là trí huệ thấu suốt tánh Không, do đó giải thoát. Theo Kinh Kim Cương Năng Đoạn (Trí huệ như kim cương cắt đứt tất cả), trí huệ tánh Không là thấu đạt “không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả”.

Thực tại thì không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng. Không bị bốn tướng đó ngăn che, chia cắt, phân mảnh nên thực tại vốn là tự do giải thoátThực tại là tánh Không.

Nhưng người ta không chỉ đạt đến thực tại bằng cách ngồi thiền bất động, mà còn bằng cách hoạt động trong thế gian (hậu thiền định), trực tiếp chạm mặt và hành động trong sắc thanh hương vị xúc pháp để thấy bản tánh của chúng là tánh Không (Bát Nhã Tâm Kinh). Kinh Kim Cương Năng Đoạn nói người ta thấy biết và chứng ngộ tánh Không khi thực hành các ba la mật trong thế gian. Chẳng hạn như thực hành bố thí ở giữa đời:

Tu Bồ Đề! Bồ tát ở nơi pháp hãy không chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp mà bố thí.

Tu Bồ Đề! Bồ tát nên như vậy mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao thế? Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường”.

“Không trụ nơi tướng”, đây là trí huệ tánh Không. “Bố thí”, là hành động của Từ bi. “Phước đức chẳng thể lường”, đó là Công đức. Trong chỉ một hành động bố thí, có đủ ba yếu tố chính yếu của một Bồ tát là Trí huệTừ Bi, và Công đức. Cho nên chính trong hành động ở thế gian mà Bồ tát thực hành Trí huệTừ Bi và Công đức nhập thành một.

Từ bi:

Trong Kinh Đại Bát Nhã, chủ yếu nói về tánh Không, khi nói đến Đức Phật, bao giờ cũng nhắc “bốn vô sở uýbốn vô ngại giải, mười lực, mười tám pháp bất cộngđại từ đại bi”. Từ bi là không thể thiếu ở một vị Phật.

Để biết Bồ tát tiến bộ đồng thời trí huệ và từ bi như thế nào, chúng ta hãy xem vị thánh Bồ tát ở Sơ Hoan Hỷ địa, tức là địa đầu tiên của Mười Địa Pháp thân, trích từ Phẩm Thập Địa Kinh Hoa Nghiêm.

Chư Phật tử! Bồ tát phát khởi những tâm như vậy bèn lấy đại bi làm đầu, trí huệ tăng thượngphương tiện thiện xảoPhật lực là chỗ giữ gìn, sức trí huệ vô ngại hiện tiền…

Phật tử! Bồ tát ban đầu phát tâm như vậy, liền vượt khỏi địa vị phàm phu, nhập vào hàng Bồ tát, sinh vào nhà Như Lai, không ai có thể nói chủng tộc của ngài lỗi lầm, lìa khỏi thế gian, nhập vào đạo xuất thế, được pháp Bồ tát, trụ chỗ của Bồ tát, vào ba đời bình đẳng, ở trong chủng tánh Như Laiquyết định đắc vô thượng giác ngộBồ tát trụ pháp như vậy gọi là trụ Bồ tát Hoan Hỷ địa, vì đã tương ưng với bất động”.

Gọi là địa Hoan hỷ vì Bồ tát đã sanh vào nhà Như Lai tức là vào Pháp thân, ở trong chủng tánh Như Lai là đã ở trong Phật tánhtương ưng với Pháp thân bất độngPháp thân là nền tảng, là con đường để tiến lên giác ngộ vô thượngHoan hỷ vì:

Vì tôi đã chuyển và lìa tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ, vì gần bậc trí huệ mà hoan hỷ, vì dứt tất cả đường xấu ác mà hoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì sanh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì vào trong tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát nên hoan hỷ”.

Tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát là Pháp thân tánh Không của tất cả chư Phật và chư Bồ tát, tánh bình đẳng ấy cũng gồm từ bi, nguyện, hạnh (hạnh: hành động) cứu độ chúng sanh.

Để tiến lên những địa trên, Bồ tát Hoan Hỷ địa có hai động lực lớn nhất là trí tuệ và từ bi:

Xa lìa cái thấy có tôi, không có tưởng về cái tôi, cho nên không sợ chết… Bồ tát này lấy đại bi làm đầu, chí nguyện rộng lớn không có gì ngăn ngại phá hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu”.

Đại bi thì phát sanh đại nguyện: nguyện đối với Phật pháp:

Lại phát đại nguyện: Nguyện lãnh thọ tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật trí, nguyện hộ tất cả Phật giáo, nguyện trì tất cả các Phật pháp, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ…

Và nguyện đối với chúng sanh:

Lại phát đại nguyện: Nguyện tất cả cõi chúng sanh: có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, trứng sanh, thai sanhẩm thấp sanh, hóa sanh, thuộc về ba cõi nhiếp vào danh sắc, trong sáu loài tất cả chỗ thác sanh, các loài như vậy tôi đều giáo hóa vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhất thiết trí, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ…

Với những lời nguyện như trên, Bồ tát dấn thân vào hành động (hạnh)và như vậy tâm Bồ tát dần dần mở rộng, bao trùm thế giới và chúng sanh. Đây là điều trong các kinh thường nói, “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

Các lời nguyện này khiến chúng ta nhớ đến những chuyện tiền thân của Phật khi còn làm Bồ tát đã ở trong các loài thế gian mà thực hành mười Ba la mật, tức là trí huệ và từ bi hợp nhất.

“Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ”: hành động trí huệ và từ bi của Bồ tát trải khắp không gian và thời gian, không dừng dứt.

Trí huệ là soi thấu bản chất của sanh tử và chúng sanh, và từ bi là ôm trùm tất cả sanh tử và chúng sanh. Thế nên nếu không có sanh tử và chúng sanh thì cũng không có con đường Bồ tát.

Công đức:

Công đức là do hành động với trí huệ và từ bi tạo thành. Trí huệ phát sanh từ bi và đưa đến hành động bố thí, tức là công đức. Đoạn kinh sau đây cho chúng ta thấy điều này:

Bồ tát Hoan Hỷ địa lại nghĩ rằng: Chánh pháp của chư Phật rất sâu như vậy, tịch tịnh như vậy, tịch diệt như vậy, Không, Vô tướngVô nguyện như vậy, mà hàng phàm phu sa vào tà kiến, bị vô minh che mờ, vào trong đủ thứ phiền não của mười hai duyên sanh… chúng sanh thêm lớn quả khổ, ở trong đây vốn là Không, lìa cái ta và cái của ta, không biết, không giác, không làm, không thọ, như cỏ cây, đá vách, cũng như hình bóng.

Bồ tát thấy chúng sanh tích tập khổ quả như vậy, không thể thoát khỏi, nên phát sanh đại bi trí huệ. Tự nghĩ rằng: tôi phải cứu với tất cả chúng sanh này đặt họ nơi chỗ rốt ráo an vui.  Do suy nghĩ như vậy bèn sanh trí huệ quang minh đại từ.

Chư Phật tử! Đại Bồ tát tùy thuận đại từ đại bi như vậy, dùng tâm sâu nặng trụ Sơ Hoan Hỷ Địa, với tất cả mọi vật không xẻn tiếc, cầu đại trí huệ Phật, tu hạnh đại xả. Phàm những gì mình có, tất cả đều bố thí được…

“Trí huệ quang minh đại từ”, từ bi qua hành động là một thực thể, là ánh sáng (quang minh), và ánh sáng từ bi ấy hợp nhất với trí huệ tánh Không.

3/ Thế gian là nơi học tập và thi thố hạnh Bồ tát

Thế gian là nơi nguy hiểm, khó khăn, đầy dẫy thách thức và cơ hội cho mọi người thực hành hạnh Bồ tát, vì chính nơi ấy mà người ấy chuyển hóa được cái thấy bất tịnh của mình thành cái thấy thanh tịnh, những phiền não trùng điệp của mình thành ánh sáng giác ngộ.

Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Phật đạo nói:

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói với ngài Duy Ma Cật: Nếu thấy cái Vô vi (vô sanhtánh Không) mà nhập chánh vị thì không còn có thể phát tâm Bồ đề vô thượng được nữa. Tuy nhiên, người sống giữa những cái hữu vi hợp tạo vô thường, trong những quặng mỏ phiền não, dầu chưa được thấy chân lý, cũng có thể phát tâm Bồ đề.

Ví như chỗ đất cao không thể sanh hoa sen, nơi bùn lầy thấp ướt mới sanh hoa ấy. Như vậy, thấy pháp vô vi rồi nhập chánh vị rốt cuộc chẳng còn sanh những phẩm tính Phật. Trong bùn lầy phiền não mới có chúng sanh khởi lên những phẩm tính Phật. Lại như gieo hạt giống giữa không trung rốt cuộc chẳng sanh được, ở đất phân bùn thì mới tốt tươi.

Như vậy, người vào vô vi chánh vị thì không sanh ra những phẩm tính Phật. Nhưng dù người sanh khởi ngã kiến như núi Tu Di thì vẫn còn có thể phát tâm Bồ đề mà sanh ra những phẩm tính Phật. Thế nên phải biết: Hết thảy phiền não là hạt giống Như LaiVí như không lặn xuống biển cả thì không thể được ngọc quý vô giá, cũng vậy, không vào biển cả phiền não thì không thể được Nhất Thiết Trí quý báu”.

Chính nhờ thực hành hạnh Bồ tát, tức là nguyện hạnh Bồ đề tâm mà Bồ tát có được không chỉ Pháp thân mà còn có Báo thân và Hóa thân để làm việc trong ba cõi thế gian. Và khi thành Phật thì ba thân này được khai mở, phát huy trọn vẹn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1185)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1652)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1587)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1499)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1087)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1480)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1418)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1340)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1395)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1718)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1983)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1440)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1097)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1433)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2038)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1481)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1566)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1395)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2923)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1381)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1416)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1738)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1687)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1639)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1482)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2647)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1611)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1619)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1413)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1430)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1620)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1574)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1452)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1442)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1526)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2208)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1564)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1518)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1635)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1856)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1542)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1424)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1679)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1429)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1723)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2397)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1479)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1971)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1687)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1766)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1626)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1960)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1694)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1447)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1741)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1591)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1559)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1342)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1257)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1306)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant