Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác

25 Tháng Hai 202318:14(Xem: 1407)
Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác
Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác
(Lục Tổ Huệ Năng)


Nguyễn Thế Đăng

Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào

Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn, cho đến khi chính thức xuất gia để dạy pháp, ngài không hề ẩn tu một mình. Trong suốt từ khi, thấy được tự tánh, đại ngộ ngài không ngừng tự giác - giác tha, lợi mình - lợi người, như dạy cho sư Huệ Minh trên đường đi lánh nạn chẳng hạn.

 Một vị thực hành Bồ tát đạo là vừa tự giác vừa giác tha, ở giữa cuộc đời cùng với mọi người. Cách tu của Lục Tổ là thấy bản tánh và sống sâu rộng bản tánh ấy giữa thế gian, trong đời sống hàng ngày, trong những điều tưởng chừng nhỏ nhặt:

Nếu khôngtâm đạo
Hạnh tối chẳng thấy đạo
Nếu thật người tu đạo
Chẳng thấy lỗi thế gian.
Nếu thấy người khác lỗi
Tự mình đã sai rồi
Người lỗi ta chẳng chê
Ta chê, ta có lỗi.
Chỉ dẹp tâm thấy lỗi
Phiền não thảy phá trừ
Thương ghét chẳng dính tâm
 Nằm duỗi hai chân nghỉ.
 Muốn độ cho người khác
 Cần phảiphương tiện
 Chớ để người có nghi
 Tức là tự tánh hiện.
 Phật pháp tại thế gian
 Chẳng lìa thế gian (mà) giác
 Lìa thế tìm giác ngộ
 Giống như tìm sừng thỏ.
Chánh kiến gọi xuất thế
 Tà kiến gọi thế gian
 Chánh tà đều dẹp sạch
 Tánh giác ngộ rõ ràng.
 (phẩm Trí Huệ, Pháp Bảo Đàn Kinh)

 “Giác ngộ” là giác ngộ tánh Không. “Tánh giác ngộ” là tánh Không. Thế gian là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, lìa năm uẩn mà tìm tánh Không thì “giống như tìm sừng thỏ”, vì bản tánh của  năm uẩntánh Không.

 Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, của mình là tánh Không (vô ngã), sắc, thọ, tưởng, hành, thức, của người là tánh Không (vô pháp). Như thế tất cả thế gian sanh tửtánh Không, bản tánh của thế gian sanh tửtánh Không. Đây là kết luận của Đại thừa: “Sanh tử tức Niết bàn, phiền não tức Bồ đề.”

 

Lục Tổ Huệ Năng chỉ rõ tánh Không, tức là Đại Trí huệ tánh Không rốt ráo (Ma ha Bát nhã ba la mật) trong phẩm Trí huệ như sau:

Các thiện tri thức! Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ vì chuyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ. Phải nhờ đại thiện tri thức chỉ dẫn cho thì được thấy tánh. Hãy biết, người ngu kẻ trí tánh Phật vốn không sai khác, chỉ do mê ngộ chẳng đồng mà có ngu có trí…

 Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã ba la mật là tiếng Phạn, nghĩa là trí huệ đến bờ giải thoát.  Cái này phải tâm làm chứ chẳng ở nơi miệng niệm. Miệng niệm tâm làm, ắt tâm miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.

 Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ cũng không vuông tròn lớn nhỏ, xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận, không vui, không phải không trái, không lành không dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không pháp nào có thể đắc. Tự tánh chân không cũng lại như vậy

Bản tánh phật, trí Bát nhã, tự tánh chân không người đời đều vốn tự có, đây Nền tảng, Con đường và Quả của Phật giáo. Con người phải chứng thực được “tâm lượng rộng lớn như hư không” để giải thoát, giác ngộ.

 Lục Tổ nói tiếp:

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng tức là bám chấp vào cái không vô ký.

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời mặt trăng, tinh tú, núi sông đất đai, suối rừng, người thiện người ác, pháp thiện pháp ác, thiên đường địa ngục, tất cả đều ở trong cái Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy.

Thiện tri thức! Tự tánh bao hàm muôn pháp, đó gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tánh của con người. Nếu thấy tất cả những điều xấu tốt của người mà đều chẳng lấy bỏ, cũng không dính nhiễm, tâm như hư không, đó gọi là lớn, nên nói là Ma ha.

 Thiện tri thức! Người mê thì miệng nói, người trí thì tâm làm. Lại có người mê, tâm trống không mà tĩnh tọa, trăm thứ không nghĩ, bèn tự cho đây là lớn. Với hạng người ấy không thể nói được, vì mắc vào tà kiến.

 Thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn khắp cả pháp giới, dùng tới bèn rõ rõ phân minh. Ứng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không trệ ngại tức là Trí huệ Bát nhã.

 Thiện tri thức! Hết thảy trí Bát nhã đều từ tự tánh mà sanh, chẳng phải từ ngoài vào, cho nên chớ dùng lầm ý, đó gọi là Chân tánh tự dụng”.

 Chỉ trong một đoạn này, ngài Huệ Năng hai lần bài bác việc ngồi thiền giữ tâm trống không, bám chấp vào cái không vô ký, nghĩa là cái không không có gì cả, kể cả ánh sáng Trí huệ.

 Tánh Khôngbao hàm sắc tướng vạn vật, tất cả đều ở trong cái Không”. Tánh Không bao trùm tất cả mọi sự, đồng thời tánh Không cũng ở trong tất cả mọi sự, “không có pháp nào có thể đắc”. Tánh Không bao trùm tất cả và là tất cả.

 Bản tánh của con người chính là tánh Không ấy nên có thể giải thoát: “Nếu thấy tất cả những điều xấu tốt của con người mà chẳng lấy bỏ, cũng chẳng dính nhiễm, tâm như hư không, đó gọi là lớn.” Thấy tướng thế gian nhưng chẳng lấy bỏ, chẳng dính nhiễm, tâm như hư không, nên có thể ở nơi thế gian với chúng sanh để cứu giúp họ.

Khi người ta nhận biết và sống thuần thục trong tánh Không ở nơi mình và ở ngoài mình nơi thế giớichúng sanh, người ta tự do. Không phải là tự do vì không có thế gian, không có sắc tướng nào cả, mà là tự do với tất cả thế gian, sắc tướng: “Tâm lượng rộng lớn khắp pháp giới, dùng tới bèn rõ rõ phân minh. Ứng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không trệ ngại, tức là Trí huệ Bát nhã. Hết thảy trí Bát nhã đều từ tự tánh mà sanh, đó gọi là chân tánh tự dụng”.

 Phần sau, phẩm Hộ Pháp, ngài nói “chân tánh tự dụng” này là “tự tánh khởi dụng”, nghĩa là tự tánh Không này không phải là một cái không vô ký mà là hoạt dụng phi thường cho một vị Bồ Tát ở đời để độ chúng sanh:

 “Tự tánh động dụng, giao tiếp nói năng, ngoài thì ở nơi tướng mà lìa tướng, trong thì ở nơi không mà lìa không. Nếu toàn bám tướng tức là thêm lớn tà kiến, còn nếu toàn chấp không thì thêm lớn vô minh”.

Không bám tướng cũng không chấp không là trung đạo của Bồ tát. Một vị hành Bồ tát hạnh thì phải ở thế gian để cứu giúp chúng sanh cho nên tâm phải hoạt động, do đó ngài giảng về vô niệm không phải là không có niệm, không có ý tưởng nào cả:

Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy biết hết thảy pháp mà tâm chẳng nhiễm dính, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng dính bám tất cả chỗ. Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm, không tạp, đến đi tự do, thông dụng không trệ, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm.

 Nếu trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến” (Phẩm Trí Huệ).

Niệm không phải là kẻ thù cần phải tiêu diệt, mà niệm là dụng cụ để làm việc ở đời, bởi vì niệm lưu xuất từ nguồn tánh Chân Như:

 “Thiện tri thức! Vô là không có sự gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có hai tướng, không có tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh Chân Như. Chân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như.

 Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay.” (Phẩm Định Huệ)

Bồ tát là người sống trong thế giới các tướng cùng với chúng sanh, và chúng sanh cũng là các tướng. Sống trong thế giới các tướng, các niệm mà người hành Bồ tát hạnh vẫn giải thoát đối với các tướng, các niệm vì chẳng dính nhiễm.

Lục Tổ Huệ Năng nói về pháp môn của ngài lấy Vô niệm, Vô tướng, Vô trụ làm ba trụ cột. Trong kinh Đại Bát Nhã, vô niệm, vô tướng, vô trụ để chỉ tánh Không.

Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta từ xưa đến nay, trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.

Vô tướng là nơi tướng mà lìa  tướng. Vô niệm là nơi niệm mà vô niệm. Vô trụbản tánh của con người.” (Phẩm Định Huệ)

 Nơi tướng mà lìa tướng là nơi tất cả tướng tạo thành thế giới, chúng sanh, mà lìa tất cả tướng ấy. Thế nghĩa là sống nơi thế giới chúng sanh, làm việc vì chúng sanh mà tâm vẫn giải thoát. Vô niệmvô trụ cũng như vậy. Đây là Bồ tát hạnh.

Trong phẩm Sám Hối, Lục Tổ nói về Ba Thân: Thanh tịnh Pháp thân Phật, Viên mãn Báo thân và Trăm ngàn ức Hóa thân. Ba thân này chỉ có trong Phật giáo Đại thừa. Một vị Bồ tát thành tựu dần dần ba thân trên con đường Bồ tát hạnh cho đến hoàn toàn tròn đủ thì thành tựu Phật quả.

Trong ba thân ấy, Hóa thân là do lòng bi của Bồ tát hóa hiện ra trên nền tảng Pháp thânBáo thân. Lòng bi được khai triển trên con đường Bồ tát cho đến khi trọn vẹnđại bi của một đức Phật. Lục Tổ đã cảm nhận sâu sắc sự xuất hiện ở đời của Hóa thân Đức Phật là do lòng đại bi. Ngài nói với sư Pháp Đạt như sau:

Ông hãy cẩn thận, chớ hiểu lầm ý Kinh, thấy Kinh nói khai thị ngộ nhập mà cho đó là cái thấy biết riêng của Phật. Ngài đã là Phật, đã đầy đủ thấy biết, cần gì phải khai mở nửa. Nay ông phải tin cái thấy biết của Phật này chỉ là tự tâm của ông, chớ chẳng có Phật nào khác.

Tất cả chúng sanh vì tự che lấp ánh sáng, tham ái trần cảnh, ngoài thì duyên níu, trong thì nhiễu loạn, nên đành chịu rong ruỗi theo sanh tử. Bởi vậy mới làm nhọc Thế Tôn từ chánh định đứng dậy dùng bao nhiêu lời lẻ khuyên chúng sanh hãy thôi nghỉ, chớ hướng ngoài tìm cầu thì cùng Phật không khác. Cho nên nói khai mở cái thấy biết của Phật.

Ta nay cũng khuyên tất cả mọi người ở trong tâm mình thường khai mở cái thấy biết của Phật.” (Phẩm Cơ duyên)

Bồ tát hạnh Lục Tổ Huệ Năng dạy thì có mặt và thực hành trong đời sống hàng ngày, giữa những con người xã hội.

Công đức ở trong pháp thân, chớ chẳng phải ở chỗ tu phước. Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không trệ ngại, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật, đó gọi là công đức.

Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài hành theo lễ là đức. Tự tánh kiến lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm là đức.

Nếu tìm công đức pháp thân, hãy y theo đây mà làm, đó là chân công đức.”

(Phẩm Nghi vấn)

Ngài nói tiếp:

Người  tu công đức thì tâm chẳng khinh thường, mà thường kính trọng khắp cả mọi người mọi vật. Nếu tâm thường khinh người, ta và cái ta chẳng dứt, bèn tự mình không có công. Tánh mình giả dối chẳng thật, tức là mình không có đức. Bởi cái ta và cái của ta tự đại, thường khinh dễ hết thảy.”

Những đức tính tưởng chừng như tầm thường của con người, nếu biết chú tâm khai triển thì sẽ lấn át trừ bỏ những tính xấu, những lỗi lầm do bám chấp và khuếch trương “cái ta và cái của ta”. Những lỗi lầm che chướng của sự bám chấp vào cái ta và cái của ta càng tiêu hao thì “công đức Pháp thân” càng hiển lộ.

Vi thứ sử lại hỏi: Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại sư chỉ dạy.

Sư nói: Ta nói cho đại chúng một bài kệ Vô tướng, chỉ y đây tu thì thường cùng ở với ta một chỗ không khác. Bằng chẳng y đây tu thì cạo đầu xuất gia cũng không ích gì đối với đạo.

Tâm bằng nào nhọc giữ giới

Hạnh thẳng nào đợi tu thiền

Ân thì hiếu dưỡng cha mẹ

Nghĩa thì trên dưới cùng thương

Nhẫn thì xấu ác lặng yên

Nếu dùi cây mà ra lửa

Bùn lầy chắc nở sen hồng.

Đắng miệng đích là lương dược

Trái tai hẳn thiệt lời trung

Chuyển lỗi ắt sanh trí huệ

Xấu dỡ trong tâm chẳng hiền

Hằng ngày thường làm lợi ích

Thành đạo chẳng do thí tiền.

Giác ngộ chỉ hướng tâm kiếm

Nhọc chi hướng ngoại cầu huyền

Nghe nói y đây tu hành

Thiên đường chỉ ngay trước mắt.

Thấy tánh và sống trong tánh là việc làm hằng ngày trong đời sống thế gian. Chỉ là trau dồi những đức tính trên nền tảng bản tâm trí huệ; chuyển lỗi trở về nguồn cội trí huệ của từng niệm khởi. Được như thế thì “thiên đường chỉ ngay trước mắt”.

“Tâm bằng, hạnh thẳng, ân, nghĩa, nhẫn” là những biểu lộ của bản tâm hay bản tánh của tâm. Nếu trên những biểu lộ ấy người ta có thể tìm thấy bản tánh của tâm như nền tảng nằm phía dưới, thì đó là “ Nếu dùi cây mà ra lửa, bùn lầy chắc nở sen hồng.” Tu tâm trong đời sống bình thường là như vậy: nơi chổ có sóng hay không có sóng người ta có thể tìm thấy đại dương.

“Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ vì duyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ”. “Phải biết người ngu kẻ trí tánh Phật vốn không sai khác.” Cái trí Bát nhã vốn tự có này, tánh Phật vốn không sai khác này vẫn thường hiện diện trong đời sống hàng ngày, “thiên đường chỉ ngay trước mắt”.

Thế nên Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất (709 – 788) đời thứ hai sau Lục Tổ, gọi nó là “tâm bình thường”, vì luôn luôn có mặt, “Tâm bình thường là Đạo”. Tổ sư Gampopa (1079 - 1153), vị sáng lập tông phái Kagyu cũng giảng nhiều về bản tâm như là “Tâm bình thường” (TT. Tamal gyi shepa) (Xem Những điểm thiết yếu của Đại Ấn, Khenchen Thrangu Rinpoche, nxb Thiện Tri Thức, từ trang 170 – 174)

Tâm bình thường này biểu lộ mỗi ngày, mỗi phút giây, mỗi niệm niệm, qua các tướng và niệm trong đời sống bình thường hàng ngày. Đây là tâm Vô tướng, Vô niệm, Vô trụ nói theo ngài Huệ Năng. Nhận biết được nó, sống với nó mà không lỡ mất bèn là người vô sự. Vô sự vì không phiền não, thương ghét.

Chỉ dẹp tâm thấy lỗi

Phiền não thảy phá trừ

Thương ghét chẳng dính tâm

Nằm duỗi hai chân nghỉ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2025)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3032)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2646)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3551)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3378)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4218)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3734)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4275)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2358)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3527)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4211)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3992)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2920)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3406)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3524)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4587)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3924)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4813)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4082)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3063)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3803)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3951)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3122)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3645)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4494)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3763)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2301)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2666)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3071)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2760)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4626)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4974)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2868)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5375)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2894)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3332)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4420)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4980)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4744)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3286)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4593)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4315)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6179)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3540)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4076)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6057)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5453)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4104)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33325)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3209)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4200)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4766)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3132)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3851)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3589)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6606)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2814)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3269)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4629)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3496)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant