Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

27 Tháng Hai 202317:23(Xem: 1650)
Phật Giáo Và Vấn Đề Giai Cấp Xã Hội
Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

Thích Trung Định

Nghiệp & Dị Thục


Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.

Lịch sử đã cho thấy chiến tranh, xung đột, bạo lực đều có nguyên nhân từ sự phân biệt, kỳ thị giai cấp. Trong thời đại Đức Phật, sự phân biệt, kỳ thị giai cấp đã ăn sâu trong tư tưởng người Ấn và trở thành một trật tự xã hội. Lãnh đạo xã hội dựa trên giai cấp và được kế thừa theo huyết thống không thay đổi từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Xã hội Ấn Độ cổ đại được chia thành bốn giai cấp. Đầu tiên là giai cấp Bà-la-môn (Brahmani) chưởng quản về các tư tế, các nhà trí thức, chú giải kinh điển Vedas, chuyên trách giáo dục. Giai cấp thứ hai là Sát-đế-lợi (Kshatriya) gồm các nhà lãnh đạo, tướng lãnh, các chiến sĩ. Giai cấp thứ ba là Phệ-xá (Vaishya) chưởng quản về các ngành nghề, thương gia, điền chủ, các nghề thủ công. Giai cấp thứ tư là Thủ-đà-la (Shudra) gồm các người làm việc nặng nhọc như nhân công, thợ thuyền, đầy tớ.

Dưới đáy xã hội là các người “ngoài giai cấp” thường được gọi là các người “paria” hay “không thể đụng tới”, hạng tiện dân, nô lệ Chiên-đà-la (Caṇḍāla) và những người này đã vi phạm luật lệ và mất các quyền xã hộitôn giáo. Họ chuyên làm vệ sinh, những việc dơ bẩn nhất và chôn xác người chết. Ngày nay những người “paria” này tự xem là “dalit”, những người bị áp bức.

Hệ thống phân chia giai cấp trên đây dựa vào kinh Rig Veda. Theo đó, giai cấp Bà-la-môn cao nhất, bắt nguồn từ đầu của thần tạo dựng Brahma. Giai cấp Sát-đế-lợi và Phệ-xá bắt nguồn từ hai cánh tay và hai chân của thần. Giai cấp Thủ-đà-la thấp nhất, bắt nguồn từ hai chân của thần Brahma.

Theo Vinayak Jadav, chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề giai cấp trong xã hội Ấn: “Các biểu hiện bên ngoài của hệ thống phân chia giai cấp tại Ấn Độ ngày nay không còn hiển nhiên như trước. Người ta không còn tuân giữ các luật lệ cứng nhắc của việc kỳ thị. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại một cách tinh vi trong các thói quen kỳ thị giữa các giai tầng xã hội.

Chẳng hạn, lãnh đạo chính quyền dành ưu tiên cho giai cấp cao, trong khi những giai cấp thấp ít có cơ hội tiến thân. Trong học vấn cũng vậy, có người giai cấp thấp đỗ đạt cao nhưng khó ra lãnh đạo, ngoại trừ những nhân vật xuất chúng. Không có ai trong giai cấp cao lập gia đình với một người thuộc giai cấp thấp hơn, vì họ sợ những hệ lụy liên quan đến bản thân.”1

Theo một số nhà lãnh đạo cấp tiến thì không có xã hội nào có thể dựa trên một ý thức hệ thù hận và kỳ thị mà bình yên được. Như Mahatma Gandhi đã nói: “Các giai cấp xã hội là một vết nhơ nhục nhã trên trán của Ấn Độ”.2

Trong bốn giai cấp thì Thủ-đà-la có vị trí thấp nhất. Tuy nhiên, tình trạng của họ vẫn còn tốt hơn những người “hạ tiện”, vì họ còn được coi là con người, trong khi tình trạng của những người “ngoài giai cấp” thấp hơn cả con người, thậm chí như súc vật. Và sự phân chia giai cấp này mang tính cha truyền con nối, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, suốt đời suốt kiếp không thay đổi được.

Lập luận chính của Đức Phật chống lại sự phân chia giai cấp này, đó là không có con người nào có thể cao thượng hay thấp hèn trong xã hội chỉ vì lý do mình sinh ra. Địa vị xã hội của con người phụ thuộc vào chính hành vi của họ. Điều này có nghĩa rằng, dựa theo thái độhành vi (nghiệp) của một người sẽ làm cho họ cao thượng hay thấp hèn, chứ không phải vì giai cấp.

Đức Phật luôn nhấn mạnh vai trò của cá nhân con ngườitrung tâm của cải cách xã hội. Xã hội là sự kết hợp của các cá nhân; do đó, cải cách cá nhân có nghĩa là cải cách xã hội. Mọi người đều có khả năng thành Phật. Như những con sông về với biển đều phải bỏ tuổi, bỏ tên. Cũng vậy, trong Giáo hội của Như Laibốn giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la.

Khi họ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, họ cũng từ bỏ giai cấp, bỏ họ, bỏ tên, bỏ danh vọng, bỏ địa vị, bỏ sự nghiệp, bỏ quê hương, chủng tộc để chỉ còn là những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, là những Sa-môn Thích tử! Đức Phật chỉ dựa vào tiêu chí về tu hành, đức hạnhtrí tuệ, chứ không phụ thuộc vào dòng giống nơi mình sinh ra. Mọi người đều bình đẳng vì mỗi người đều có thể hoàn thành những mục tiêu cao cả.

Đức Phật đã bác bỏ quan điểm của Bà-la-môn, rằng “Vị trí xã hội của con người phụ thuộc vào sự ra đời của họ”, Ngài dạy:

“Không phải do sinh ra, người ta trở thành thấp/ Không phải do sinh ra, người ta trở thành cao quý/ Nhưng bằng hành động, một người trở thành thấp/ Và bằng hành động, người ta trở thành cao quý”.

Đức Phật chỉ rõ, hành động (nghiệp) của người đó mới quan trọng, không phải là hoàn cảnh ra đời của họ. Một điểm quan trọng khác cần làm rõ là liệu một người sinh ra trong một giai cấp thấp có phải vì nghiệp xấu trước đây của họ? Khả năng này được thừa nhận trong Phật giáo, như được hiểu trong học thuyết về nghiệp.

Đức Phật không bao giờ chấp nhận sự cao quý hay thấp kém dựa trên nơi chốn hay đẳng cấp mà họ sinh ra. Học thuyết luân hồi tái sinh của Phật giáo giải thích cho chúng ta hiểu, kết quả mình có trong hiện tại một phần do nghiệp quá khứ. Tuy nhiên, nghiệp theo Phật giáo không phải định nghiệp mà là bất định nghiệp. Do đó, con người có thể chuyển đổi hoàn cảnh của mình do sự nỗ lực của cá nhân có thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại.

Đạo đức và sự phát triển tâm linh không phải là một đặc quyền của cá nhân, giai cấp. Đức Phật dạy rằng, tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp đều bình đẳng trước pháp luật về đạo đức. Người có thân phận thấp kém sau khi xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật trở thành thánh thiện đều được mọi người tôn kính. Quả vị giác ngộ dành cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tánh. Nếu ai nỗ lực đúng cách thì đạt được quả vị cao quý ấy.

Trong rất nhiều bản kinh, Đức Phật đã lên tiếng chống lại hệ thống đẳng cấp. Kinh Ambattha (thuộc Trường bộ), kinh Assalayana (thuộc Trung bộ)…, Đức Phật đều tranh luận mạnh mẽ, thẳng thừng phê phán, quyết liệt chống lại quan điểm bảo thủ giai cấp của Bà-la-môn.

Bài kinh Assalāyana (Trung bộ), cho thấy sự tranh luận quyết liệt này. Thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn: Thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn nói như sau: “Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt; chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”3.

Đức Phật lần lượt đưa ra những luận lý của mình để giải thích, chứng minh rằng lời tuyên bố đó là vô căn cứ. Ngài nói rằng, sự thanh tịnh là kết quả của việc thực hành giới hạnh, không phải do sinh ra mà có. Đức Phật thậm chí tước bỏ tính di truyền của danh từ ‘Bà-la-môn’ và đem danh từ đó trở về ý nghĩa ban đầu của một người thánh thiện, xác định một người Bà-la-môn thực sự chính là vị A-la-hán. “Không biết chỗ sở thủ/ Thiên, Nhân, Càn-thát-bà/ Lậu hoặc được đoạn trừ/ Bậc Ứng cúng, La-hán/ Kẻ ấy Ta mới gọi/ Chánh danh Bà-la-môn”4

Ngay từ ban đầu, Phật giáo không chấp nhận hệ thống đẳng cấp, và cũng không có sự thay đổi quan điểm hay thỏa hiệp với vấn đề này trong suốt quá trình phát triển về sau. Theo Phật giáo, giai cấp chỉ là một vấn đề quy ước của con người. Đức Phật dạy: “Ai sống theo thiện pháp thì đó là người đáng kính, chứ không phải vì người đó thuộc dòng dõi, giai cấp nào cả”.

Một người xuất thân từ dòng dõi thấp kém vào trong giáo pháp của Như Lai, vẫn có thể chứng được quả vị A-la-hán. “Không có đẳng cấp khi nước mắt cùng mặn, khi máu cùng đỏ”. Hãy đánh giá một người qua hạnh nghiệp của người đó, chứ đừng đánh giá người đó bởi dòng dõi họ sinh ra. Những ai đã xuất gia trong giáo pháp của Như Lai thì phải cạo bỏ râu tóc như là sự từ bỏ đẳng cấp riêng để tìm về cái chung, cũng như nước của mọi con sông đều trở thành vị mặn khi cùng đổ ra biển lớn… Hãy nên lấy nỗi khổ đau của người làm nỗi đau của chính mình mới vỡ lẽ nhiều bài học quý giá trong cuộc sống.

Như vậy, một người khi tham gia vào cộng đồng Phật giáo thì tất cả những gì liên quan đến đẳng cấp đều bị loại trừ. Tất cả đều bình đẳng trong giáo pháp, và tất cả đều có khả năng đạt được giác ngộ, bất kể màu da hay nguồn gốc gia đình của họ là gì.

Tóm lại, sự phân biệt giai cấp trong xã hội loài ngườithể không bao giờ chấm dứt, nhưng tiếng nói chân chính của Phật giáo bảo vệ những người thấp yếu cũng như cho tất cả mọi người là rất đáng trân trọng. Tư tưởng Phật giáo góp phần xóa bỏ kỳ thị, xua tan thù hận, hàn gắn tang thương, thay đổi nhận thức và có thái độ sống tích cực, mang lại sự an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.

-------------------------

(1) https://minhtrietviet.net/te-nan-phan-chia-giai-cap-trong-xa-hoi-an-do/

(2)Tâm thức phân chia giai cấp tại Ấn Độ” http://vi.radiovaticana.va/storico/2010/11/16/.

(3) Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Trung bộ, tập 2, NXB Tôn Giáo, 2016, p. 185.

(4) Sđd, p.248.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8269)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7855)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7916)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 9047)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26214)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13896)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 28053)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19910)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7816)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7667)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7529)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8078)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9808)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22811)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16953)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8597)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10430)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10617)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11322)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9921)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10600)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12750)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8833)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19907)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20889)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21431)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13489)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10599)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9565)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26815)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10774)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12164)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30970)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14193)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11207)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11144)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11294)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11690)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12793)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24115)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14946)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11664)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20294)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10632)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10415)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12337)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11528)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14325)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11985)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24701)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12380)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22326)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12585)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12754)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12668)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16850)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13788)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13079)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13534)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12638)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant