Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

27 Tháng Hai 202317:23(Xem: 1653)
Phật Giáo Và Vấn Đề Giai Cấp Xã Hội
Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

Thích Trung Định

Nghiệp & Dị Thục


Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.

Lịch sử đã cho thấy chiến tranh, xung đột, bạo lực đều có nguyên nhân từ sự phân biệt, kỳ thị giai cấp. Trong thời đại Đức Phật, sự phân biệt, kỳ thị giai cấp đã ăn sâu trong tư tưởng người Ấn và trở thành một trật tự xã hội. Lãnh đạo xã hội dựa trên giai cấp và được kế thừa theo huyết thống không thay đổi từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Xã hội Ấn Độ cổ đại được chia thành bốn giai cấp. Đầu tiên là giai cấp Bà-la-môn (Brahmani) chưởng quản về các tư tế, các nhà trí thức, chú giải kinh điển Vedas, chuyên trách giáo dục. Giai cấp thứ hai là Sát-đế-lợi (Kshatriya) gồm các nhà lãnh đạo, tướng lãnh, các chiến sĩ. Giai cấp thứ ba là Phệ-xá (Vaishya) chưởng quản về các ngành nghề, thương gia, điền chủ, các nghề thủ công. Giai cấp thứ tư là Thủ-đà-la (Shudra) gồm các người làm việc nặng nhọc như nhân công, thợ thuyền, đầy tớ.

Dưới đáy xã hội là các người “ngoài giai cấp” thường được gọi là các người “paria” hay “không thể đụng tới”, hạng tiện dân, nô lệ Chiên-đà-la (Caṇḍāla) và những người này đã vi phạm luật lệ và mất các quyền xã hộitôn giáo. Họ chuyên làm vệ sinh, những việc dơ bẩn nhất và chôn xác người chết. Ngày nay những người “paria” này tự xem là “dalit”, những người bị áp bức.

Hệ thống phân chia giai cấp trên đây dựa vào kinh Rig Veda. Theo đó, giai cấp Bà-la-môn cao nhất, bắt nguồn từ đầu của thần tạo dựng Brahma. Giai cấp Sát-đế-lợi và Phệ-xá bắt nguồn từ hai cánh tay và hai chân của thần. Giai cấp Thủ-đà-la thấp nhất, bắt nguồn từ hai chân của thần Brahma.

Theo Vinayak Jadav, chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề giai cấp trong xã hội Ấn: “Các biểu hiện bên ngoài của hệ thống phân chia giai cấp tại Ấn Độ ngày nay không còn hiển nhiên như trước. Người ta không còn tuân giữ các luật lệ cứng nhắc của việc kỳ thị. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại một cách tinh vi trong các thói quen kỳ thị giữa các giai tầng xã hội.

Chẳng hạn, lãnh đạo chính quyền dành ưu tiên cho giai cấp cao, trong khi những giai cấp thấp ít có cơ hội tiến thân. Trong học vấn cũng vậy, có người giai cấp thấp đỗ đạt cao nhưng khó ra lãnh đạo, ngoại trừ những nhân vật xuất chúng. Không có ai trong giai cấp cao lập gia đình với một người thuộc giai cấp thấp hơn, vì họ sợ những hệ lụy liên quan đến bản thân.”1

Theo một số nhà lãnh đạo cấp tiến thì không có xã hội nào có thể dựa trên một ý thức hệ thù hận và kỳ thị mà bình yên được. Như Mahatma Gandhi đã nói: “Các giai cấp xã hội là một vết nhơ nhục nhã trên trán của Ấn Độ”.2

Trong bốn giai cấp thì Thủ-đà-la có vị trí thấp nhất. Tuy nhiên, tình trạng của họ vẫn còn tốt hơn những người “hạ tiện”, vì họ còn được coi là con người, trong khi tình trạng của những người “ngoài giai cấp” thấp hơn cả con người, thậm chí như súc vật. Và sự phân chia giai cấp này mang tính cha truyền con nối, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, suốt đời suốt kiếp không thay đổi được.

Lập luận chính của Đức Phật chống lại sự phân chia giai cấp này, đó là không có con người nào có thể cao thượng hay thấp hèn trong xã hội chỉ vì lý do mình sinh ra. Địa vị xã hội của con người phụ thuộc vào chính hành vi của họ. Điều này có nghĩa rằng, dựa theo thái độhành vi (nghiệp) của một người sẽ làm cho họ cao thượng hay thấp hèn, chứ không phải vì giai cấp.

Đức Phật luôn nhấn mạnh vai trò của cá nhân con ngườitrung tâm của cải cách xã hội. Xã hội là sự kết hợp của các cá nhân; do đó, cải cách cá nhân có nghĩa là cải cách xã hội. Mọi người đều có khả năng thành Phật. Như những con sông về với biển đều phải bỏ tuổi, bỏ tên. Cũng vậy, trong Giáo hội của Như Laibốn giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la.

Khi họ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, họ cũng từ bỏ giai cấp, bỏ họ, bỏ tên, bỏ danh vọng, bỏ địa vị, bỏ sự nghiệp, bỏ quê hương, chủng tộc để chỉ còn là những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, là những Sa-môn Thích tử! Đức Phật chỉ dựa vào tiêu chí về tu hành, đức hạnhtrí tuệ, chứ không phụ thuộc vào dòng giống nơi mình sinh ra. Mọi người đều bình đẳng vì mỗi người đều có thể hoàn thành những mục tiêu cao cả.

Đức Phật đã bác bỏ quan điểm của Bà-la-môn, rằng “Vị trí xã hội của con người phụ thuộc vào sự ra đời của họ”, Ngài dạy:

“Không phải do sinh ra, người ta trở thành thấp/ Không phải do sinh ra, người ta trở thành cao quý/ Nhưng bằng hành động, một người trở thành thấp/ Và bằng hành động, người ta trở thành cao quý”.

Đức Phật chỉ rõ, hành động (nghiệp) của người đó mới quan trọng, không phải là hoàn cảnh ra đời của họ. Một điểm quan trọng khác cần làm rõ là liệu một người sinh ra trong một giai cấp thấp có phải vì nghiệp xấu trước đây của họ? Khả năng này được thừa nhận trong Phật giáo, như được hiểu trong học thuyết về nghiệp.

Đức Phật không bao giờ chấp nhận sự cao quý hay thấp kém dựa trên nơi chốn hay đẳng cấp mà họ sinh ra. Học thuyết luân hồi tái sinh của Phật giáo giải thích cho chúng ta hiểu, kết quả mình có trong hiện tại một phần do nghiệp quá khứ. Tuy nhiên, nghiệp theo Phật giáo không phải định nghiệp mà là bất định nghiệp. Do đó, con người có thể chuyển đổi hoàn cảnh của mình do sự nỗ lực của cá nhân có thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại.

Đạo đức và sự phát triển tâm linh không phải là một đặc quyền của cá nhân, giai cấp. Đức Phật dạy rằng, tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp đều bình đẳng trước pháp luật về đạo đức. Người có thân phận thấp kém sau khi xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật trở thành thánh thiện đều được mọi người tôn kính. Quả vị giác ngộ dành cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tánh. Nếu ai nỗ lực đúng cách thì đạt được quả vị cao quý ấy.

Trong rất nhiều bản kinh, Đức Phật đã lên tiếng chống lại hệ thống đẳng cấp. Kinh Ambattha (thuộc Trường bộ), kinh Assalayana (thuộc Trung bộ)…, Đức Phật đều tranh luận mạnh mẽ, thẳng thừng phê phán, quyết liệt chống lại quan điểm bảo thủ giai cấp của Bà-la-môn.

Bài kinh Assalāyana (Trung bộ), cho thấy sự tranh luận quyết liệt này. Thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn: Thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn nói như sau: “Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt; chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”3.

Đức Phật lần lượt đưa ra những luận lý của mình để giải thích, chứng minh rằng lời tuyên bố đó là vô căn cứ. Ngài nói rằng, sự thanh tịnh là kết quả của việc thực hành giới hạnh, không phải do sinh ra mà có. Đức Phật thậm chí tước bỏ tính di truyền của danh từ ‘Bà-la-môn’ và đem danh từ đó trở về ý nghĩa ban đầu của một người thánh thiện, xác định một người Bà-la-môn thực sự chính là vị A-la-hán. “Không biết chỗ sở thủ/ Thiên, Nhân, Càn-thát-bà/ Lậu hoặc được đoạn trừ/ Bậc Ứng cúng, La-hán/ Kẻ ấy Ta mới gọi/ Chánh danh Bà-la-môn”4

Ngay từ ban đầu, Phật giáo không chấp nhận hệ thống đẳng cấp, và cũng không có sự thay đổi quan điểm hay thỏa hiệp với vấn đề này trong suốt quá trình phát triển về sau. Theo Phật giáo, giai cấp chỉ là một vấn đề quy ước của con người. Đức Phật dạy: “Ai sống theo thiện pháp thì đó là người đáng kính, chứ không phải vì người đó thuộc dòng dõi, giai cấp nào cả”.

Một người xuất thân từ dòng dõi thấp kém vào trong giáo pháp của Như Lai, vẫn có thể chứng được quả vị A-la-hán. “Không có đẳng cấp khi nước mắt cùng mặn, khi máu cùng đỏ”. Hãy đánh giá một người qua hạnh nghiệp của người đó, chứ đừng đánh giá người đó bởi dòng dõi họ sinh ra. Những ai đã xuất gia trong giáo pháp của Như Lai thì phải cạo bỏ râu tóc như là sự từ bỏ đẳng cấp riêng để tìm về cái chung, cũng như nước của mọi con sông đều trở thành vị mặn khi cùng đổ ra biển lớn… Hãy nên lấy nỗi khổ đau của người làm nỗi đau của chính mình mới vỡ lẽ nhiều bài học quý giá trong cuộc sống.

Như vậy, một người khi tham gia vào cộng đồng Phật giáo thì tất cả những gì liên quan đến đẳng cấp đều bị loại trừ. Tất cả đều bình đẳng trong giáo pháp, và tất cả đều có khả năng đạt được giác ngộ, bất kể màu da hay nguồn gốc gia đình của họ là gì.

Tóm lại, sự phân biệt giai cấp trong xã hội loài ngườithể không bao giờ chấm dứt, nhưng tiếng nói chân chính của Phật giáo bảo vệ những người thấp yếu cũng như cho tất cả mọi người là rất đáng trân trọng. Tư tưởng Phật giáo góp phần xóa bỏ kỳ thị, xua tan thù hận, hàn gắn tang thương, thay đổi nhận thức và có thái độ sống tích cực, mang lại sự an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.

-------------------------

(1) https://minhtrietviet.net/te-nan-phan-chia-giai-cap-trong-xa-hoi-an-do/

(2)Tâm thức phân chia giai cấp tại Ấn Độ” http://vi.radiovaticana.va/storico/2010/11/16/.

(3) Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Trung bộ, tập 2, NXB Tôn Giáo, 2016, p. 185.

(4) Sđd, p.248.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23107)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34672)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32246)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30470)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30741)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21062)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20219)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19484)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24427)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30743)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15712)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27840)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19795)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15593)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23285)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23613)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17557)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15735)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21943)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38064)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22226)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23298)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21402)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28455)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32605)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25234)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34732)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22999)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27752)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31351)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13629)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25255)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27889)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22142)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20766)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22232)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27200)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24186)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21963)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14753)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23212)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24065)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21176)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14226)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19977)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22564)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14099)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28083)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22896)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28256)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11033)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28544)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31621)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26233)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 15007)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28061)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7486)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25421)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20732)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21162)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant