Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô Tự TánhĐại Bi

21 Tháng Sáu 202316:01(Xem: 1213)
Vô Tự Tánh Và Đại Bi

Vô Tự TánhĐại Bi

Nguyễn Thế Đăng

 
Duyên Pháp


1/ Sự không có lõi cứng của mình, người và thế giới

Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.

Kinh Bọt Nước, Phẩm Hoa, Tập III Thiên Uẩn, Kinh Tương Ưng Bộ I, nói:

Có người mắt nhìn chuyên chú như lý quán sát đống bọt nước, nó hiện rõ ra là trống không, rỗng không, không có lõi cứng.

Cũng vậy, này các Tỳ kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, thô hay tế, yếu hay mạnh, xa hay gần, vị Tỳ kheo thấy sắc, nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, rỗng không, không có lõi cứng. Này các Tỳ kheo, làm sao mà lại có lõi cứng trong sắc được?”.

Cũng với cách nói như vậy, kinh nói “thọ như những bong bóng nước do các giọt mưa làm hiện ra rồi tan biến, tưởng như ráng mặt trời, hành như các bẹ chuối, lột hết thì không có lõi ở đâu cả; thức như nhà ảo thuật làm xuất hiện các thứ, nhưng các xuất hiện ấy là trống không, trống rỗng, không có lõi cứng”.

Năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức của thân tâm mỗi người, và như vậy, của tất cả chúng sanh, khi “như lý quán sát” thì đều không có lõi cứng, trống không, rỗng không. Không có lõi cứng, trống không, điều này hệ Sanskrit các bộ kinh Bát nhã ba la mật đa gọi là “không có tự tánh, vô tự tánh, Không, như huyễn”.

Phẩm Rắn Uragavagga, Kinh Tập, Kinh Tiểu Bộ I, nói:
5.  Ai trong các sanh hữu
Không tìm thấy lõi cây
Như kẻ đi hái hoa
Trên cây sung không hoa.
Tỳ kheo ấy từ bỏ
Bờ này và bờ kia
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ, già xưa.

9.  Ai không đi quá trớn

Cũng không quá chậm trễ
Biết rõ được ở đời
Sự này toàn hư vọng
Tỳ kheo ấy từ bỏ
Bờ này và bờ kia
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ, già xưa.

“Như lý quán sát”, “biết rõ được ở đời” là trí huệ nhìn thấy sự thực của tất cả mọi hình tướng xuất hiện là “không có lõi cứng, rỗng không, hư vọng, như huyễn thuật”. Và do đó sự từ bỏ là điều tự nhiên, “từ bỏ cả bờ này và bờ kia”.

Sự không có lõi cứng, vô tự tánh, tánh Không của các giác quan và các đối tượng của chúng, của thân tâmthế giới được nói trong kinh Duy Ma Cật như sau:

Khi khất thực, nên trụ trong sự bình đẳng của tất cả các pháp, khất thực với sự quan tâm đến tất cả chúng sanh trong mọi lúc. Vì không ăn mới nên đi khất thực vậy. Vì hoại tướng hòa hiệp mới nên cầm lấy miếng thức ăn vậy. Vì chẳng thọ mới nên thọ đồ ăn ấy. Vì tưởng làng xóm trống không mà vào nơi làng xóm. Có thấy sắc cũng như mù, có nghe tiếng cũng như vang, có ngửi mùi cũng như gió, vị món ăn chẳng phân biệt. Cảm thọ các xúc như trí chứng (tánh Không). Biết các pháp, các hiện tượng là tướng như huyễn, không tự tánh, không tha tánh, xưa vốn chẳng cháy, nay cũng chẳng tắt” (Phẩm Đệ tử).

Thân tâm, thế giới, chúng sanhnhư huyễn, như mộng:

Tất cả các pháp sanh diệt chẳng trụ, như huyễn, như chớp. Các pháp chẳng đợi nhau, cho đến một niệm cũng chẳng dừng. Các pháp đều là vọng thấy, như mộng, như dợn nắng, như trăng trong nước, như bóng trong gương, đều do vọng tưởng sanh. Người nào biết như vậy gọi là khéo hiểu” (Phẩm Đệ tử).

Con người sống với các chúng sanh khác và tạo thành gia đình, xã hội. Nhưng cũng chính vì sống với các chúng sanh khác mà có đủ thứ phiền não thương ghét, say mê, giận hờn, tranh chấp, hơn thua, xung đột, chiến tranh một mất một còn.

Nhưng “mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát, khéo hiểu” thì chúng sanh là thế nào?

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ngài Duy Ma Cật rằng: Bồ tát nhìn chúng sanh như thế nào?

Ngài Duy Ma Cật Đáp: Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn do mình biến hóa ra, Bồ tát thấy chúng sanh cũng như vậy. Như người trí thấy trăng trong nước. Như trong gương thấy mặt mình. Như ảo ảnh nơi hơi nóng. Như vang của tiếng. Như mây trong không. Như đống bọt nước. Như sự bền chắc của cây chuối. Như sự dừng lâu của tia chớp. Như đại thứ năm. Như uẩn thứ sáu. Như căn thứ bảy. Như nhập thứ mười ba. Như giới thứ mười chín. Bồ tát quán thấy chúng sanh cũng như vậy” (Phẩm Quán chúng sanh).

2/ Đại bi

Bồ tát cũng là một chúng sanh, một chúng sanh đi trên con đường giác ngộ (Bodhisattva). Trên con đường ấy Bồ tát dần dần thấy ra mọi sự và chúng sanh đều không có lõi cứng, vô tự tánh, thực chấttánh Không. Nhưng vì con người không nhìn chuyên chú, như lý quán sát nên vọng thấy tất cả cuộc đời sanh tử, chia cắt mình và người, mình và thế giới để thành ra một cõi nhân gian đầy khổ đau, với tất cả mọi thứ phiền não.

Người ta vì không biết (vô minh), thấy lầm (vọng thấy) nên không biết mình đang tìm kiếm, tranh đoạt lẫn nhau những thứ “hư vọng, không có lõi cứng, như trăng trong nước…”. Vì như bọt nước mà tìm cách nắm giữ, như tia chớp mà trọn đời đuổi theo nắm bắt, như giành nhau vớt mặt trăng trong nước rồi đánh nhau giết nhau, như người huyễn do mình biến hóa ra mà tìm cách hơn thua, thương ghét… một cuộc đời vọng tưởng như vậy là vô vọng. Thấy đời người vô vọng, khổ đau một cách vô ích, như Bát Nhã Tâm Kinh nói là “điên đảo mộng tưởng”, nên nơi người thực hành Bồ tát đạo lòng bi tự nhiên khởi sanh.

Trí huệ thấy tánh Không khiến lòng bi khởi sanh là như vậy.

Bồ tát thấy chúng sanh mê lầm, không biết được sự thật “vô ngã và vô pháp”, ngã và pháp đều không có lõi cứng, vô tự tánh nên đại bi càng thêm rộng lớn. Chính nhờ đại bi này, Bồ tát không dừng lại giữa đường để nhập hoàn toàn vào tánh Không, tức là nhập Niết bàn, mà bỏ lại chúng sanh. Các kinh, như Hoa Nghiêm, Nhập Lăng Già… đều nói Bồ tát ở Địa thứ Tám có thể nhập Niết bàn theo ý muốn nhưng không làm vì không thể bỏ mặc chúng sanh, không bỏ đại nguyện đã phát từ khi khởi sự con đường.

Do đại bi, Bồ tát đi giữa sanh tửNiết bàn, nghĩa là tâm không ở trong sanh tử mà cũng không trụ hẳn vào Niết bàn, cho đến lúc thành Phật để độ tất cả chúng sanh.

3/ Con đường Bồ tát

Bồ tát là người đã phát Bồ đề tâm. Bồ đề tâm gồm (1) nguyện đạt đến giác ngộ vô thượng (Trí huệ), (2) để độ thoát tất cả chúng sanh (Đại bi).

Đó là con đường trí huệđại bi hợp nhất. Trí huệ là thấy được bản tánh của mọi hiện tượng, kể cả hiện tượng chúng sanh, là tánh Không, như huyễn như mộng. Đồng thời, đại bi là không bỏ chúng sanh ở lại trong mê lầm và khổ đau.

Trí huệ tánh Khôngđại bi cứu độ chúng sanh, nếu nhìn một cách cạn cợt thì như mâu thuẫn nhau, không thể hợp nhất. Nhưng con đường Bồ tát tìm cách hợp nhất hai yếu tố đó trong từng bước, cho đến khi gần cuối con đường, hai yếu tố ấy phát triển trọn vẹn và hợp nhất trọn vẹn.

Đại bi là không bỏ chúng sanh, ở trong thế giới của chúng sanh để giúp đỡ, cứu thoát họ. Để làm được đại nguyện đó, phải có trí huệ tánh Không làm tiêu tan các phiền não nhiễm ô của bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả để tự bảo vệ mình và làm việc cho người.

Đó là con đường hợp nhất trí huệ và đại bi, con đường Bồ tát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2732)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2046)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3067)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2671)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3590)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3397)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4237)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3761)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4296)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2375)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3542)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4235)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 4012)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2936)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3434)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3546)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4613)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3943)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4822)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4106)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3081)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3828)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3971)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3156)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3680)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4515)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3780)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2334)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2683)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3103)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2798)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4655)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4997)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2892)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5408)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2913)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3358)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4449)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 5022)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4777)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3317)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4613)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4338)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6220)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3557)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4100)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6078)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5467)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4126)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33493)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3235)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4217)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4788)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3164)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3873)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3614)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6648)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2831)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3282)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4660)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant