Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lộ Trình Giải Thoát Trong Đạo Phật

30 Tháng Sáu 202418:28(Xem: 2572)
Lộ Trình Giải Thoát Trong Đạo Phật

Lộ Trình Giải Thoát Trong Đạo Phật


Thích Nữ
 Hằng Như

 123



I. DẪN NHẬP

Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó. Cho nên giải thoát có nghĩa là thoát khỏinhững trói buộc, vượt thoát thực tại bị giam hãm và được hoàn toàn tự do.

Thí dụNhư một người đau bệnh, trị hết bệnh, được khỏe mạnh an vui là người đó đã được giải thoát khỏi căn bệnh gây đau đớn thân thể. Một  người tù đến ngày mãn hạn, được tự do về với gia đìnhxem như được giải thoát khỏi cảnh bị giam cầm. Một cặp vợ chồng sống chung trong hoàn cảnh chán ghét lẫn nhau, sau cuộc ly dị mỗi người một cuộc sống riêng tư, thì xem như họ đã được giải thoát khỏi ngục tù gia đình. Chuyện giải thoát không phải chỉ bàn ở con người, mà loài vật khi bị ràng buộc cũng muốn được giải thoátThí dụ như con chim bị nhốt trong lồng, tuy hằng ngày được chủ chăm sóc cho ăn uống tử tế nhưng nó vẫn cảm thấytù túng, một ngày kia thoát ra ngoài được tự do, nó sẽ không bao giờ trở lại, vì nó đã được giải thoát.

Trên đây là vài thí dụ mô tả ý nghĩa giải thoát ở ngoài đời. Trong đạo Phật hai từ giải thoátđược đề cập tới một cách sâu sắc hơn. Giải thoát theo triết lý nhà Phật là trạng thái tinh thầncon người được tự dotự tại trước những buồn vui, thương ghét, hạnh phúc hay đau khổ của bản thân. Tâm người ấy thanh tịnh tuyệt đối, do đoạn tận những tập khíđam mêdục vọngdập tắt những ngọn lửa ngầm tham, sân, si là gốc rễ của mọi đau khổ. Các bậc thánh nhânnày đã chấm dứt dòng nhân quả nghiệp báovượt qua biển khổ vô minh, lên bờ giác ngộ giải thoát.

Trên lộ trình tu tập giải thoát trong đạo Phật, thì Niết-bàn là mục tiêu giải thoát cao nhất. Niết-bàn tiếng Phạn là Nirvana, có nghĩa là diệt độDiệt độ đây không có nghĩa là triệt tiêu hay tiêu diệt.  

Diệt ở đây có nghĩa là đoạn tận mười Kiết sử là mười thứ trói buộc con người vào dòng nhân quả nghiệp báoĐộ có nghĩa là vượt qua khỏi biển khổ vô minh, lên bờ giác ngộ.

Nói cách khác, Niết-bàn là trạng thái tâm vô thamvô sânvô sivô ái, vô thủ, vô hữuvô sanh... Trạng thái tâm này tương ưng với Diệt đế trong Tứ thánh đế nghĩa là tâm đã giải thoátra khỏi những tập nhân gây ra phiền não.

Giải thoát có hai loạiHữu Dư Y Giải thoát hay Hữu Dư Y Niết-bàn, chỉ các bậc thánh được giải thoát ngay khi còn thân mạng. Tuy sống và sinh hoạt với người bình thường mà vẫn an nhiên tự tại không bị hoàn cảnh thế nhân chi phối. Khi thân hoại mạng chung , thì nhập Vô Dư Y Niết-bàn. Vô Dư Y Niết-bàn là bản thể thường còn, bất sinh bất diệt của vạn pháp hữu tình và vô tình, không thể dùng ngôn từ để diễn tả, cũng không thể dùng Ý cănÝ thức hình dung đưa ra quan niệm giải thích.

 

II. LỘ TRÌNH GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO PHẬT

Như trình bày ở trên, tất cả mọi người sinh ra ở thế gian này,  không ai là không phiền não, khổ đau. Nhưng nếu người nào cứ ôm lấy phiền não, khổ đau mãi thì trong nhà Phật gọi người đó là vô minh, cho dù người đó có bằng cấp, học vị cao, thành cônggiàu có trong xã hội.            

Muốn thoát khỏi phiền não, người tu theo đạo Phật cần nhuần nhuyễn Pháp học và  Pháp hành. Sau khi tu tập có kết quả thì gọi là Pháp thành.

A. PHÁP HỌC: Thông thạo giáo lý Tứ Diệu Đế và giáo lý Duyên Khởi, để biết rằng bất cứ chuyện gì xảy ra cũng có nguyên nhân của nó. Khổ cũng có nguyên nhân gây ra khổ. Nhận ra nguyên nhân rồi, áp dụng pháp tu để loại trừ những nguyên nhân đó, thì thoát khổ. Con người sống ở đời có rất nhiều phiền não khổ đau, nhưng chung quy nguyên nhân gây khổ đau nằm ở ba mặt.

1) Nhóm thứ nhất gây khổ đau là Ngũ dục:  Gồm tài, sắc, danh, thực, thùy.  Bình thườngcon người khó tránh khỏi năm thứ trói buộc. Đó tiền bạc, nhan sắcdanh tiếngăn uống, ngủ nghỉ. Thuật ngữ trong Phật giáo gọi là ngũ dụcNgũ dục là năm thứ mà con người luôn khao khát mong muốn chiếm hữu

 2) Nhóm thứ hai là Ngũ trần: Qua các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân... tiếp xúc trần cảnh bên ngoài là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc... nghĩa là mắt thấy cảnh sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm những thức ănda thịt xúc chạm êm ái... Những thứ này luôn khiến con người có những phản ứng thuận hay nghịch,  đưa đến hành vi và nhận thức tốt hoặc xấu gây phiền não, tạo thành nghiệp. 

3) Nhóm thứ ba là Tâm ô nhiễmTâm con người thường có hai mặt thiện và bất thiệnNếu không khéo kiểm soát tâm ý, thì tâm bất thiện có nhiều cơ hội lấn át tâm thiện. Tâm bất thiệngồm: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến...  Đây là những thứ làm ô nhiễm tâm,  là nguyên nhân gây ra phiền não và luân hồi sinh tử.

 

B. PHÁP HÀNH: Muốn đạt giải thoát, theo giáo lý nhà Phật là phải thực hành  Giới-Định-Tuệ không có con đường nào khác. Tu Giới-Định-Tuệ tức thực hành theo Bát chánh đạo gồm tám yếu tốChánh tri kiếnChánh tư duyChánh ngữChánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấnChánh niệmChánh địnhThành tựu Bát chánh đạo là thành tựu Giới-Định-Tuệ, có nghĩa là Tâm hành giả được giải thoát khỏi những phiền não trong hiện tại, nhưng chưa hoàn toànthoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Muốn giải thoát rốt ráohành giả cần tiếp tục thực hành thiền TuệTu thiền Tuệ có hai cấp bậc.

1) Quán Anupassana: Nhìn liên tục hiện tượng thế gian bằng con mắt tâm để nhận ra bản thể “Vô thường, khổ (xung độtbất như ý) và vô ngã “.

2) Vipassana/Minh sát tuệ: Tiếp tục quán sâu vào Thân, Thọ, Tâm, Pháp, thành tựu tuệ giác“Vô ngã cao độ” xả ly toàn bộ tham áichấp thủtự tại vô ngại trước ngũ dục và ngũ trần, thanh lọc mọi thứ ô nhiễm trong tâm, thành tựu chánh trí đắc Tứ quả A-la-hán.

Bậc A-la-hán đã thành tựu giải thoát luân hồi sinh tửchấm dứt mọi khổ đau.  Các Ngài sống an lạc trên thế gian. Muốn nhập Niết-bàn ngay khi đắc đạo hay tùy duyên ở lại thế gian trong trạng thái Hữu-dư-y Niết-bàn, hoằng pháp lợi sinh cho đến khi tuổi thọ chấm dứt thì nhập Vô-dư-y Niết-bàn.

 

III. GIẢI THOÁT TỪNG PHẦN

1. Sơ quả Tu-đà-hoàn: Muốn giác ngộ giải thoáthành giả tu tập từng bước. Nhờ thông hiểugiáo lý Phật đàhành giả biết rằng con người do nhiều điều kiện hợp thành nên bản thân này không phải là ta hay của ta, bởi vì ta không thể làm chủ được nó. Cho nên đoạn trừ được quan niệm về thân sắc, không quá đắm say nô lệ nó. Thay đổi nhận thức, có nghĩa là hành giả có chánh tín về pháp học, nên loại trừ được giới cấm thủ và nghi ngờ pháp tu. Hành giảđoạn trừ ba Kiết sử đầu tiên là: Thân kiếnGiới cấm thủ và Nghi ngờhành giả bước vào dòng Thánh gọi là Dự lưu. Nếu trong thời gian tu tập, thân hoại mạng chung, thì vị này trở lạikiếp người thêm 7 lần nữa, nên gọi là Thất lai.

2. Nhị quả Tư-đà-hàm: Tiến thêm một bước nữa, hành giả tu tập giảm bớt tham dục và sân hận, đắc Nhị quả Tư đà hàm. Trong kinh ghi khi thân hoại mạng chung vị này tái sanh về cõi người một lần nữa để tu tiếp nên gọi là Nhất lai.

3. Tam quả A-na-hàm: Hành giả đắc pháp nhãn nhìn rõ nguyên nhân gây ra phiền não, nên đoạn trừ 100% tham áisân hận, nghĩa là đoạn tận năm thượng phần Kiết sử là: Thân kiếnGiới cấm thủNghi ngờTham dụcSân hận. Vị này tiếp tục hành trì tu tập hoặc nếu chấm dứt tuổi thọ, thì sanh lên cõi Trời và ở đó tu tập nhập Niết Bàn luôn không còn trở lại đời sốngnày nữa nên gọi là Bất lai.

4. Tứ quả A-La-hán: Là vị đã đoạn trừ được thêm năm thượng phần Kiết Sửtức tâm vị này không còn hướng đến: Sắc ái (dính mắc với tứ thiền hữu sắc), Vô sắc ái (dính mắc với tứ thiền vô sắc), Kiêu mạnTrạo cử và Vô minh. Vị này đã xả ly toàn bộ mười Kiết Sử, không còn tham áichấp thủtự tại vô ngại trước ngũ dụcngũ trần, tâm hoàn toàn trong sáng thành tựu chánh tríđắc quả A-la-hán, an trú trong Hữu Dư Y giải thoát.

                                     

IV. KẾT LUẬN

Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra (từ nghiệp cũ, nghiệp mới, ngũ dụcngũ trần, tham, sân, si). Muốn thoát khổ thì phải tự mình tháo gở những sợi dây ràng buộc đó, chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơngiáng họa cho mình. Vì thế, muốn nếm được hương vị giải thoát, trước hết hành giả phải tự thân nỗ lực tu hành. Dù theo pháp môn nào, hành giả cũng phải thâm nhập bốn nền tảng giáo lý Tứ Diệu Đế của đạo Phật. Đó là mọi khổ đau của chúng sanh đều phát xuất từ một hay nhiều nguyên nhân. Và những nguyên nhân đó có thể giải trừ bằng đường lối tu tập tám ngành Bát chánh đạo. Đó chính là thực hành Tam Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ. Hiểu rõ giáo lý Y-duyên tánh để nhận ra sự thật của vạn pháp là “vô thườngbất như ývô ngã”, con người sẽ không còn lý do bám víu vào ngũ dụcsân si...  là những nguyên nhân gây khổ đau trong cuộc đời.

Thực hành Giới-Định-Tuệ, đời sống đạo đức của hành giả được thăng hoa, tâm định tĩnh, trí tuệ phát sáng. Kết quả sơ khởi của việc tu tập, giúp hành giả thoát khỏi một số ràng buộcnhư ý hay bất như ý trong đời sống hằng ngàyTiếp tục tinh cần hành trìbuông xả mọi khả ái, khả lạc, khả ưu, khả sân...  thường xuyên sống trong chánh niệm, luôn có cái biết trong lành, định tĩnh, sáng suốthành giả sẽ thực thụ trải nghiệm trạng thái Xả, là trạng thái tâm bình thản trước mọi vướng bận của cuộc đời. Bấy giờ có thể nói hành giả đã an toàn giải thoátan trú trong Hữu Dư Y Niết-bàn,/.

 

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(23/6/2024, Sinh hoạt trực tuyến với

Hội Thiền Tánh Không Sacramento và San Jose, California)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9357)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 6666)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 6506)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 6085)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 7016)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 7076)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 5660)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 7651)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 6391)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 6038)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 7239)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 7662)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 7499)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 6639)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 5742)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 6228)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 6213)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 7324)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 4418)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 7085)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 4068)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 5532)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 6682)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 5537)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 4623)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 8196)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 7953)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 6245)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 8106)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 7885)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 5411)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 7867)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 6027)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 6281)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 4438)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 7743)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 6922)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 4888)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 4949)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 7581)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 5878)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 7558)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 6869)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 5158)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 4998)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 5003)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 4725)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 7055)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 5927)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 6031)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 7180)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 4464)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 4469)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 5445)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 6334)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 4878)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 4563)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 5958)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 6437)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 4836)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant