Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lộ Trình Giải Thoát Trong Đạo Phật

30 Tháng Sáu 202418:28(Xem: 2852)
Lộ Trình Giải Thoát Trong Đạo Phật

Lộ Trình Giải Thoát Trong Đạo Phật


Thích Nữ
 Hằng Như

 123



I. DẪN NHẬP

Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó. Cho nên giải thoát có nghĩa là thoát khỏinhững trói buộc, vượt thoát thực tại bị giam hãm và được hoàn toàn tự do.

Thí dụNhư một người đau bệnh, trị hết bệnh, được khỏe mạnh an vui là người đó đã được giải thoát khỏi căn bệnh gây đau đớn thân thể. Một  người tù đến ngày mãn hạn, được tự do về với gia đìnhxem như được giải thoát khỏi cảnh bị giam cầm. Một cặp vợ chồng sống chung trong hoàn cảnh chán ghét lẫn nhau, sau cuộc ly dị mỗi người một cuộc sống riêng tư, thì xem như họ đã được giải thoát khỏi ngục tù gia đình. Chuyện giải thoát không phải chỉ bàn ở con người, mà loài vật khi bị ràng buộc cũng muốn được giải thoátThí dụ như con chim bị nhốt trong lồng, tuy hằng ngày được chủ chăm sóc cho ăn uống tử tế nhưng nó vẫn cảm thấytù túng, một ngày kia thoát ra ngoài được tự do, nó sẽ không bao giờ trở lại, vì nó đã được giải thoát.

Trên đây là vài thí dụ mô tả ý nghĩa giải thoát ở ngoài đời. Trong đạo Phật hai từ giải thoátđược đề cập tới một cách sâu sắc hơn. Giải thoát theo triết lý nhà Phật là trạng thái tinh thầncon người được tự dotự tại trước những buồn vui, thương ghét, hạnh phúc hay đau khổ của bản thân. Tâm người ấy thanh tịnh tuyệt đối, do đoạn tận những tập khíđam mêdục vọngdập tắt những ngọn lửa ngầm tham, sân, si là gốc rễ của mọi đau khổ. Các bậc thánh nhânnày đã chấm dứt dòng nhân quả nghiệp báovượt qua biển khổ vô minh, lên bờ giác ngộ giải thoát.

Trên lộ trình tu tập giải thoát trong đạo Phật, thì Niết-bàn là mục tiêu giải thoát cao nhất. Niết-bàn tiếng Phạn là Nirvana, có nghĩa là diệt độDiệt độ đây không có nghĩa là triệt tiêu hay tiêu diệt.  

Diệt ở đây có nghĩa là đoạn tận mười Kiết sử là mười thứ trói buộc con người vào dòng nhân quả nghiệp báoĐộ có nghĩa là vượt qua khỏi biển khổ vô minh, lên bờ giác ngộ.

Nói cách khác, Niết-bàn là trạng thái tâm vô thamvô sânvô sivô ái, vô thủ, vô hữuvô sanh... Trạng thái tâm này tương ưng với Diệt đế trong Tứ thánh đế nghĩa là tâm đã giải thoátra khỏi những tập nhân gây ra phiền não.

Giải thoát có hai loạiHữu Dư Y Giải thoát hay Hữu Dư Y Niết-bàn, chỉ các bậc thánh được giải thoát ngay khi còn thân mạng. Tuy sống và sinh hoạt với người bình thường mà vẫn an nhiên tự tại không bị hoàn cảnh thế nhân chi phối. Khi thân hoại mạng chung , thì nhập Vô Dư Y Niết-bàn. Vô Dư Y Niết-bàn là bản thể thường còn, bất sinh bất diệt của vạn pháp hữu tình và vô tình, không thể dùng ngôn từ để diễn tả, cũng không thể dùng Ý cănÝ thức hình dung đưa ra quan niệm giải thích.

 

II. LỘ TRÌNH GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO PHẬT

Như trình bày ở trên, tất cả mọi người sinh ra ở thế gian này,  không ai là không phiền não, khổ đau. Nhưng nếu người nào cứ ôm lấy phiền não, khổ đau mãi thì trong nhà Phật gọi người đó là vô minh, cho dù người đó có bằng cấp, học vị cao, thành cônggiàu có trong xã hội.            

Muốn thoát khỏi phiền não, người tu theo đạo Phật cần nhuần nhuyễn Pháp học và  Pháp hành. Sau khi tu tập có kết quả thì gọi là Pháp thành.

A. PHÁP HỌC: Thông thạo giáo lý Tứ Diệu Đế và giáo lý Duyên Khởi, để biết rằng bất cứ chuyện gì xảy ra cũng có nguyên nhân của nó. Khổ cũng có nguyên nhân gây ra khổ. Nhận ra nguyên nhân rồi, áp dụng pháp tu để loại trừ những nguyên nhân đó, thì thoát khổ. Con người sống ở đời có rất nhiều phiền não khổ đau, nhưng chung quy nguyên nhân gây khổ đau nằm ở ba mặt.

1) Nhóm thứ nhất gây khổ đau là Ngũ dục:  Gồm tài, sắc, danh, thực, thùy.  Bình thườngcon người khó tránh khỏi năm thứ trói buộc. Đó tiền bạc, nhan sắcdanh tiếngăn uống, ngủ nghỉ. Thuật ngữ trong Phật giáo gọi là ngũ dụcNgũ dục là năm thứ mà con người luôn khao khát mong muốn chiếm hữu

 2) Nhóm thứ hai là Ngũ trần: Qua các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân... tiếp xúc trần cảnh bên ngoài là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc... nghĩa là mắt thấy cảnh sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm những thức ănda thịt xúc chạm êm ái... Những thứ này luôn khiến con người có những phản ứng thuận hay nghịch,  đưa đến hành vi và nhận thức tốt hoặc xấu gây phiền não, tạo thành nghiệp. 

3) Nhóm thứ ba là Tâm ô nhiễmTâm con người thường có hai mặt thiện và bất thiệnNếu không khéo kiểm soát tâm ý, thì tâm bất thiện có nhiều cơ hội lấn át tâm thiện. Tâm bất thiệngồm: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến...  Đây là những thứ làm ô nhiễm tâm,  là nguyên nhân gây ra phiền não và luân hồi sinh tử.

 

B. PHÁP HÀNH: Muốn đạt giải thoát, theo giáo lý nhà Phật là phải thực hành  Giới-Định-Tuệ không có con đường nào khác. Tu Giới-Định-Tuệ tức thực hành theo Bát chánh đạo gồm tám yếu tốChánh tri kiếnChánh tư duyChánh ngữChánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấnChánh niệmChánh địnhThành tựu Bát chánh đạo là thành tựu Giới-Định-Tuệ, có nghĩa là Tâm hành giả được giải thoát khỏi những phiền não trong hiện tại, nhưng chưa hoàn toànthoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Muốn giải thoát rốt ráohành giả cần tiếp tục thực hành thiền TuệTu thiền Tuệ có hai cấp bậc.

1) Quán Anupassana: Nhìn liên tục hiện tượng thế gian bằng con mắt tâm để nhận ra bản thể “Vô thường, khổ (xung độtbất như ý) và vô ngã “.

2) Vipassana/Minh sát tuệ: Tiếp tục quán sâu vào Thân, Thọ, Tâm, Pháp, thành tựu tuệ giác“Vô ngã cao độ” xả ly toàn bộ tham áichấp thủtự tại vô ngại trước ngũ dục và ngũ trần, thanh lọc mọi thứ ô nhiễm trong tâm, thành tựu chánh trí đắc Tứ quả A-la-hán.

Bậc A-la-hán đã thành tựu giải thoát luân hồi sinh tửchấm dứt mọi khổ đau.  Các Ngài sống an lạc trên thế gian. Muốn nhập Niết-bàn ngay khi đắc đạo hay tùy duyên ở lại thế gian trong trạng thái Hữu-dư-y Niết-bàn, hoằng pháp lợi sinh cho đến khi tuổi thọ chấm dứt thì nhập Vô-dư-y Niết-bàn.

 

III. GIẢI THOÁT TỪNG PHẦN

1. Sơ quả Tu-đà-hoàn: Muốn giác ngộ giải thoáthành giả tu tập từng bước. Nhờ thông hiểugiáo lý Phật đàhành giả biết rằng con người do nhiều điều kiện hợp thành nên bản thân này không phải là ta hay của ta, bởi vì ta không thể làm chủ được nó. Cho nên đoạn trừ được quan niệm về thân sắc, không quá đắm say nô lệ nó. Thay đổi nhận thức, có nghĩa là hành giả có chánh tín về pháp học, nên loại trừ được giới cấm thủ và nghi ngờ pháp tu. Hành giảđoạn trừ ba Kiết sử đầu tiên là: Thân kiếnGiới cấm thủ và Nghi ngờhành giả bước vào dòng Thánh gọi là Dự lưu. Nếu trong thời gian tu tập, thân hoại mạng chung, thì vị này trở lạikiếp người thêm 7 lần nữa, nên gọi là Thất lai.

2. Nhị quả Tư-đà-hàm: Tiến thêm một bước nữa, hành giả tu tập giảm bớt tham dục và sân hận, đắc Nhị quả Tư đà hàm. Trong kinh ghi khi thân hoại mạng chung vị này tái sanh về cõi người một lần nữa để tu tiếp nên gọi là Nhất lai.

3. Tam quả A-na-hàm: Hành giả đắc pháp nhãn nhìn rõ nguyên nhân gây ra phiền não, nên đoạn trừ 100% tham áisân hận, nghĩa là đoạn tận năm thượng phần Kiết sử là: Thân kiếnGiới cấm thủNghi ngờTham dụcSân hận. Vị này tiếp tục hành trì tu tập hoặc nếu chấm dứt tuổi thọ, thì sanh lên cõi Trời và ở đó tu tập nhập Niết Bàn luôn không còn trở lại đời sốngnày nữa nên gọi là Bất lai.

4. Tứ quả A-La-hán: Là vị đã đoạn trừ được thêm năm thượng phần Kiết Sửtức tâm vị này không còn hướng đến: Sắc ái (dính mắc với tứ thiền hữu sắc), Vô sắc ái (dính mắc với tứ thiền vô sắc), Kiêu mạnTrạo cử và Vô minh. Vị này đã xả ly toàn bộ mười Kiết Sử, không còn tham áichấp thủtự tại vô ngại trước ngũ dụcngũ trần, tâm hoàn toàn trong sáng thành tựu chánh tríđắc quả A-la-hán, an trú trong Hữu Dư Y giải thoát.

                                     

IV. KẾT LUẬN

Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra (từ nghiệp cũ, nghiệp mới, ngũ dụcngũ trần, tham, sân, si). Muốn thoát khổ thì phải tự mình tháo gở những sợi dây ràng buộc đó, chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơngiáng họa cho mình. Vì thế, muốn nếm được hương vị giải thoát, trước hết hành giả phải tự thân nỗ lực tu hành. Dù theo pháp môn nào, hành giả cũng phải thâm nhập bốn nền tảng giáo lý Tứ Diệu Đế của đạo Phật. Đó là mọi khổ đau của chúng sanh đều phát xuất từ một hay nhiều nguyên nhân. Và những nguyên nhân đó có thể giải trừ bằng đường lối tu tập tám ngành Bát chánh đạo. Đó chính là thực hành Tam Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ. Hiểu rõ giáo lý Y-duyên tánh để nhận ra sự thật của vạn pháp là “vô thườngbất như ývô ngã”, con người sẽ không còn lý do bám víu vào ngũ dụcsân si...  là những nguyên nhân gây khổ đau trong cuộc đời.

Thực hành Giới-Định-Tuệ, đời sống đạo đức của hành giả được thăng hoa, tâm định tĩnh, trí tuệ phát sáng. Kết quả sơ khởi của việc tu tập, giúp hành giả thoát khỏi một số ràng buộcnhư ý hay bất như ý trong đời sống hằng ngàyTiếp tục tinh cần hành trìbuông xả mọi khả ái, khả lạc, khả ưu, khả sân...  thường xuyên sống trong chánh niệm, luôn có cái biết trong lành, định tĩnh, sáng suốthành giả sẽ thực thụ trải nghiệm trạng thái Xả, là trạng thái tâm bình thản trước mọi vướng bận của cuộc đời. Bấy giờ có thể nói hành giả đã an toàn giải thoátan trú trong Hữu Dư Y Niết-bàn,/.

 

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(23/6/2024, Sinh hoạt trực tuyến với

Hội Thiền Tánh Không Sacramento và San Jose, California)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6065)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 6518)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 4961)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 5617)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 6052)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 4921)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 5069)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 6807)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 5945)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 4863)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 4100)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 4173)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 4211)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 4521)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 4971)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 5732)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 7057)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 3772)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 8144)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 4414)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 4604)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 4849)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 4812)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 4622)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 6291)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 3958)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 6982)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 5780)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 5243)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 4740)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 5702)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 6499)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 5063)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 8605)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 5436)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 4595)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 4541)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 4372)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 7851)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 6417)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 4818)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 4094)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 5290)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 6088)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 7775)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 8608)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 5424)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 5907)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 6598)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5667)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 4838)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 6539)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 8139)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 7526)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 5149)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 6229)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6076)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 5955)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 5982)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 6197)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant