Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tình Yêu Cái Thiện

07 Tháng Năm 202517:09(Xem: 531)
Tình Yêu Cái Thiện

Tình Yêu Cái Thiện


Nguyễn Thế Đăng

Chánh Kiến  2

 

Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn. Chỉ nói riêng về các tôn giáongày xưa là thánh chiến, là thiêu sống, là giết hại, khiến không biết bao nhiêu người chết, bị đuổi khỏi xứ. Ngày nay thì có đối thoại tôn giáo, có tôn trọng nhau, dù chưa sâu sắc nhưng cũng đủ không loại bỏ nhau khỏi trái đất này.

Khi chúng ta nói con người càng có văn hóa hơn, văn minh hơn, có nghĩa con người càng hướng về cái thiện, dù có những cấp độ khác nhau trong việc thực hiện và trong định nghĩa về nó.

Có một nhà văn, nhà khoa học, nhà kinh tế, nhà xã hộinào nổi tiếng mà thiếu cái thiện?

 

Hai thế kỷ trước Công nguyênMạnh Tử đã nói: “Không có tâm trắc ẩn thì chẳng phải là người. Không có tâm hổ thẹn thì không phải là người. Không có tâm từ tốn khiêm nhượng thì không phải là người. Không có tâm phân biệt đúng sai, phải trái thì không phải là người. Người ta có bốn mối đức tính ấy như người có bốn chi tay chân vậy”.

Bốn đức tính làm người này có thể gồm vào một cái thiện, bởi vì thiện có nghĩa là có những đức tính.  Càng nhiều đức tính tức là càng nhiều cái thiện.

 

Thiện như một hạt giống đã có từ khi tiến hóa thành người, như kinh nói “Tất cả chúng sanhđều có Phật tánh”. Hạt giống đó càng lúc càng phát triển cho đến lúc hoàn thiện, để con người được trưởng thành, và còn đưa con người vượt lên, thành người thánh thiệnhoàn hảo.

 

Sự đam mê, tình yêu cái thiện khiến một số người từ bỏ cuộc sống đời thường để hiến mình cho công cuộc tìm kiếm và phát triển cái thiện. Cái thiện, vì là một hạt giống tiềm ẩn trong thân tâm, là lời kêu gọi, một nỗi ám ảnh từ sâu thẳm, từ cao xa, để con người bước vào con đường đạo. Như đức vua - thiền sư Trần Thái Tông gọi đó là một con đường hướng thượng(hướng thượng nhất lộ).

 

 

Các xấu ác chớ làm 

Các tốt thiện vâng làm 

Tự thanh tịnh tâm ý 

Là lời chư Phật dạy. 

 

Đời người và lịch sử loài người luôn luôn là cuộc chiến tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu. Và làm người cho đến làm con người cao cấp là cái tốt thiện nhiều hơn cái xấu ác. Tỉ lệ, tốt / xấu, thiện / ác là một yếu tố chính để đánh giá một người.

 

Cái tốt, cái thiện có thể tích tập thêm nhiều trong khi sống một mình, trong khi tiếp xúc với người khác, với thiên nhiên. Trồng một cái cây trên đồi trọc, rồi cây ấy sẽ có hàng ngàn hoa, hạt rơi xuống, thành bao nhiêu cây khác, đây là một hành động thiện. Trong đời sống hàng ngày, bất kỳ ai cũng có thể làm những hành động thiện, một lời thăm hỏi, một cái bắt tay, một nụ cười… đều là quà tặng cho một ai đó và rộng ra, cho xã hội.

 

Cái xấu ác cần phải loại trừ, vì trước hết, nó làm hại người chứa chấp nó, và rộng ra thì gây hại cho xã hội. Có hành động xấu nào mà không gây hại cho chính người làm ra nó và cho xã hội.

 

Nhưng những lời nói xấu ác, những hành động xấu ác phát xuất từ đâu? Từ tâm ý. Và những lời nói tốt thiện, những hành động tốt thiện cũng đều phát xuất từ tâm ý.

Tâm là môi trường, là mảnh đất (tâm địa) để người ta gieo những hạt giống tốt thiện và những hạt giống xấu ác. Những hạt giống ấy lớn lên, và khi gặp những điều kiện, những duyên thì trở thành quả. Một cơn giận ấp ủ lâu ngày khi gặp điều kiện tức thời biến thànhđánh nhau. Một thù hận lâu năm giữa quốc gia này với quốc gia kia, nếu không làm cho phai nhạt thì gặp một sự cố gì đó sẽ biến thành chiến tranh.

 

Người ta thường nói ‘tu tâm’ là vì thế. Tâm là nơi sanh ra mọi hành động thân, khẩu, ý tốt xấu, từ thô cho đến tế. Cho nên câu thứ ba của bài kệ trên nói, “Tự thanh tịnh tâm ý”.

Tự thanh tịnh tâm ý mình là nguyên lý, là chiến lược và mục đích tối hậu, còn tất cả những phương pháppháp môn, những con đường tuy có thể có những khởi điểm khác nhau, những cách thực hành khác nhau, nhưng đều phải đi trên con đường tự tịnh tâm ý và đưa đến mục đích tối hậu là giải thoátNiết bànGiải thoát chẳng phải là tìm cách đi đâu cả, mà là thoát khỏi những phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… luôn luôn quấy nhiễu và trói buộc, khiến người ta cứ luẩn quẩn trong vòng vây vướng mắc và khổ đau. Đây gọi là sinh tử luân hồiGiải thoát, ra khỏi những trói buộc của vô số phiền não quấy nhiễu, đây gọi là Niết bànhạnh phúc trường cửu khi không còn phiền não. Tất cả tùy thuộc vào tâm, tâm thanh tịnh không có phiền não hay tâm không thanh tịnh vì có phiền não quấy nhiễu, làm cho đảo điên, khổ sở.

 

Cũng trong bài kệ trên, chúng ta thấy cái thiện đồng nghĩa với sự “thanh tịnh”. Cái thiện là sự thanh tịnh, và sự thanh tịnh là cái thiện. Và thanh tịnh cũng có nghĩa là cái đẹp. Một người được gọi là thánh bởi vì sự thanh tịnh của người ấy, cũng là cái đẹp của người ấy.

Như vậy tình yêu, đam mê cái thiện cũng có nghĩa là tình yêu, đam mê sự thanh tịnh và cái đẹp của sự thanh tịnh.

Thân thể và tâm thức chúng ta là do chúng ta tạo thành trong cuộc đời hướng thượng. Với bài kệ Phật dạy ở trên, chúng ta thấy rằng cuộc đời chúng ta là do chính chúng ta tạo lập, xây dựng. Không có đổ thừa cho ai cả. Ngày xưaKhổng giáo đã nói, “Người quân tử thì không oán trời, không trách người”.

 

 

Một điều ai cũng có thể kinh nghiệm là tình yêu cái thiện tống khứ những cái bất thiện ra khỏi thân tâmTâm từ hoà loại bỏ tâm giận giữ, thù hằn. Như một ngọn đèn trong căn phòng tống khứ bóng tối ra ngoài cửa. Cho nên tình yêu cái thiện là một phương pháp trên con đường tiến hóa.

Điều này được nói đến trong Sáu loại niệm, sáu nhớ nghĩ về cái tốt thiện để xóa bỏ cái xấu ác, từ đó sanh ra hoan hỷ an vui.

 

Trong Luận Thanh Tịnh Đạo của Buddhagosa (Thích Nữ Trí Hải dịch tiếng Việt) nói về Sáu tùy niệm, chương VII, như sau:

“Niệm, hay tưởng niệm, hay tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ bậc giác ngộ gọi là niệm Phật. Đây là danh từ để chỉ chánh niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của Phật.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Pháp gọi là niệm Pháp. Đây là danh từ chỉ niệm mà đối tượng là những đức tính đặc biệt của Pháp được khéo giảng.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Tăng gọi là niệm Tăng. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của Tăng chúng, nghĩa là những đức tính như đi vào con đường chánh…

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Giới gọi là niệm Giới. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của giới không bị phá vỡ.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ bố thí gọi là niệm Thí. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của bố thí, như rộng rãi…

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ chư Thiên gọi là niệm Thiên. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của niềm tin, như chư Thiên là bằng chứng.”

Kinh Sambadhokasa còn nói: “Thành tựu của phương phápđạt đến Niết bàn, đó là sáu tuỳ niệm”.

 

Tưởng niệm, nhớ nghĩ như vậy đồng nghĩa với quán tưởng, như quán tưởng Phật trong các kinh, “quán tưởng bổn tôn” của Mật tông… khi quán tưởng những đức tính của các phạm trùtrên, người ta dần dần có những đức tính của đối tượng được quán tưởng.

 

Con người càng tiến hóa khi trau dồi và có được những đức tính, và càng có nhiều đức tính thì càng được chúng bảo vệ đối với những cái xấu ác. Càng có nhiều đức tính, người ta càng có nhiều hạnh phúcĐời sống xã hội là môi trường cho con người tích góp, phát huy cái thiện.

 

 

David R. Hawkins (1927-2012), một tác giả hiện đại nổi tiếng khảo cứu về tâm linh, mà nhiều tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt. Trong cuốn Map of consciousness đã phân chia một bậc thang tiến hóa từ thấp đến cao theo con số cấp độ năng lượng, từ người thường đến bậc thánh cao nhất. Bậc thang này được đánh giá bởi đức tính tốt nhiều hay ít và tính xấunhiều hay ít.

200 là người bình thường, dưới 200 là những tính xấu, như nhục nhã 20, khổ đau 75, sợ hãi100, giận dữ 150. Ở cấp độ này, cuộc đời người ta thu hút, hấp dẫnchiêu cảm những tính xấu, những ‘xui xẻo’, bệnh tật, tai nạn… những năng lượng yếu.

Trên 200 là những đức tính tốt, năng lượng cao như khách quan (250), sự tự nguyện (310), lý trí (400), tình thương yêu (500) niềm vui (540), an bình (600), giác ngộ (700-1000). Những đức tính tốt thu hút những năng lượng tốt đẹp, ‘may mắn’, hạnh phúc, an vui…, có lẽ kể cả trí thông minh.

 

Tóm lại, bảng cấp độ ý thức con người có thể chưa chính xác lắm và còn thiếu về các đức tính, nhưng cũng cho chúng ta một bản tham khảo để biết mình đang ở đâu trên con đườngtiến hóa.

Bảng các cấp độ ý thức này, như những lời dạy của các bậc minh triết cổ xưa, căn cứ trên những đức tính. Và càng có nhiều đức tính, người ta càng giàu có về niềm vui và hạnh phúcHạnh phúc không phải là cái gì cao xa mà ở trong những việc làmý nghĩ hàng ngày của mỗi người.

Cái thiện là gia tài, là tài nguyên hạnh phúc khổng lồ, bất tận cho con người khai thác và an hưởng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5999)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 6334)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 6404)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 6172)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 9513)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 6833)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 6681)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 6194)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 7141)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 7204)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 5767)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 7788)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 6597)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 6148)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 7380)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 7811)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 7672)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 6806)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 5898)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 6365)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 6404)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 7488)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 4539)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 7235)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 4189)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 5706)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 6817)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 5634)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 4758)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 8312)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8157)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 6379)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 8261)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 8097)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 5592)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 8081)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 6249)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 6448)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 4594)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 7864)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 7121)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 5049)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 5132)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 7794)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 6043)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 7727)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 6981)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 5375)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 5129)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 5104)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 4816)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 7221)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 6052)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 6160)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 7271)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 4581)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 4555)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 5654)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 6491)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 5019)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM