Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 22: Chuyển pháp luân kinh

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13863)
Chương 22: Chuyển pháp luân kinh


Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

 

5.

Chương 22

CHUYỂN PHÁP LUÂN KINH

Hồi đó sa môn Assaji vẫn còn tu theo lối khổ hạnh tại vườn Nai ở Isipatana. Một hôm, sau giờ thiền tọa, thầy Assaji trông thấy thấp thoáng bóng một vị sa môn đang từ ngoài xa đi đến. Nhìn kỹ, ông biết đó là Siddhatta. Ông vội báo cho các bạn cùng biết. Thầy Bhaddiya nói:

- Siddhatta hồi đó đang tu khổ hạnh với chúng ta thì nửa chừng bỏ cuộc. Ông ta ăn cơm, uống sữa, vào ra thôn lạc và làm quen với bọn trẻ trong xóm. Sa môn Siddhatta đã làm cho chúng ta thất vọng. Vậy nếu ông ấy có tới thăm chúng ta thì chúng ta cũng không nên đón tiếp nồng hậu làm gì.

Cả năm người đồng ý là sẽ không ra tận ngõ để đón tiếp mà cũng không cần đứng dậy khi Siddhatta bước vào.

Nhưng sự tình đã xảy ra khác hẳn. Thấy Siddhatta bước vào tới cổng, không ai bảo ai, cả năm người đều tức khắc đứng dây. Sa môn Siddhatta có phong độ thật uy nghi. Người ông như tỏa chiếu hào quang. Mỗi bước chân của ông như nói lên được sức mạnh của tâm linh ông và cái nhìn của ông như lấy đi hết tất cả mọi ý niệm kháng cự có thể có trong năm người sa môn đã cùng tu chung với ông thuở trước. Sa môn Kondanna chạy tới trước. Ông đỡ lấy bình bát trên tay Siddhatta. Sa môn Mahanama chạy đi múc nước cho Siddhatta rửa tay và rửa chân. Sa môn Bhaddiya kê một chiếc ghế mời Siddhatta ngồi. Sa môn Vappa đi tìm một quạt bằng lá cây thốt nốt để quạt cho Siddhatta. Assaji thì đứng ngớ ngẩn một bên, chẳng biết làm gì.

Sau khi Siddhatta đã rửa tay, rửa mặt, rửa chân và ngồi xuống, Assaji mới biết đi tìm rót một bát nước lạnh đem tới cho Siddhatta giải khát. Rồi năm người bạn cũ cùng ngồi quanh Siddhatta. Siddhatta đưa mắt nhìn các bạn, rồi nói:

- Này quý vị, tôi đã tìm ra đạo giải thoát rồi, và tôi sẽ chỉ dạy lại cho quý vị.

Nghe nói như thế, sa môn Assaji nửa tin nửa ngờ. Có lẽ bốn người kia cũng có cảm tưởng như ông. Mọi người im lặng hồi lâu. Bỗng Kondanna lên tiếng:

- Sa môn Gotama! Hồi trước trong thời gian tu với chúng tôi, bạn đã nửa chừng bỏ cuộc, bạn đã ăn cơm, uống sữa và giao thiệp với người lớn và trẻ con trong xóm. Làm sao bạn có thể tìm được đạo giải thoát. Làm sao bạn có thể chỉ dạy cho chúng tôi về đạo giải thoát?

Siddhatta nhìn vào mắt sa môn Kondanna, ông hỏi:

- Sa môn Kondanna, bạn đã quen biết tôi từ gần sáu năm nay. Trong thời gian ấy tôi đã từng nói dối bạn một lần nào chưa?

Kondanna giật mình. Ông thẳng thắn nói:

- Sa môn Gotama nói đúng, Tôi chưa bao giờ từng nghe sa môn nói một điều không phù hợp với sự thực.

- Vậy các bạn hãy nghe đây. Tôi đã tìm ra được Đạo Lớn rồi và tôi sẽ chỉ dạy cho các bạn. Các bạn là những vị sa môn đầu tiên trên đời được nghe giáo pháp mầu nhiệm mà tôi đã tìm ra. Giáo pháp này không phải là kết quả của suy luận. Giáo pháp này là hoa trái của thực chứng. Các vị hãy đem hết nhận thức thanh tịnhnghiêm chỉnh lắng nghe.

Giọng nói của Bụt mang uy lực tâm linh rất lớn khiến năm người đều tự động đổi thế ngồi, nghiêm chỉnh hướng về người. Họ chắp tay lại. Kondanna thành kính nói:

- Xin sa môn Gotama đem hết lòng xót thương mà dạy cho chúng tôi.

Bụt nghiêm trang mở lời:

- Này các vị sa môn, có hai thái cực mà người tu đạo nên tránh: một là lao mình vào khoái lạc nhục thể, hai là hành hạ thân xác cho hao mòn. Cà hai con đường đều đưa tới sự phá sản của thân tâm. Con đường mà tôi đã tìm racon đường trung đạo tránh được hai thái cực ấy và có thể đem đến trí tuệ, giải thoátan lạc. Con đường đó là con đường Bát chánh: nhận thức chân chính, tư duy chân chính, ngôn ngữ chân chính, hành động chân chính, sinh kế chân chính, chuyên cần chân chính, niệm lực chân chínhđịnh lực chân chính. Tôi đã theo con đường bát chánh đó và đã thực hiện được trí tuệ, giải thoátan lạc.

Này các vị, sao gọi là chánh đạo? Sở dĩ gọi là chánh đạocon đường này không phải là con đường trốn tránh đau khổ mà là con đường đối diện trực tiếp khổ đau để diệt trừ khổ đau. Con đường bát chánh này là con đường của sự sống tỉnh thức, vì vậy chánh niệm là khởi điểm. Có chánh niệm thì sẽ có chánh định, nghĩa là định lựctác dụng đưa tới trí tuệ. Nhờ có niệm lựcđịnh lực chân chính thì nhận thức, tư duy, ngôn từ, hành động, sinh kế và sự chuyên cần cũng sẽ đi vào chánh đạo. Trí tuệ được phát sinh sẽ giải thoát được cho người hành giả tất cả mọi ràng buộc khổ đau và làm phát sinh nơi người hành gia nguồn an lạc chân chính.

Này các vị, có bốn sự thật mà người tu phải công nhận: sự có mặt của những nguyên nhân của các khổ đau ấy, sự chấm dứt khổ đau và con đường đi tới sự chấm dứt khổ đau. Bốn sự thật ấy là bốn sự thật mầu nhiệm, gọi là tứ diệu đế. Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ nhất: Khổ đau, sinh, già, bệnh và chết là khổ; buồn, giận ghen, tức, lo lắng, sợ hãithất vọng là khổ; chia cách người thân yêu là khổ, chung đụng với người ghét bỏ là khổ, tham đắm và kẹt vào năm uẩn là khổ.

Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ hai: nguyên nhân của khổ đau. Vì u muội, vì không thấy và không hiểu được sự thật về bản thân và về cuộc đời cho nên con người bị những ngọn lửa của tham đắm, giận hờn, ghen tức, sầu não, lo lắng sợ hãithất vọng đêm ngày đốt cháy và hành hạ.

Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ ba: sự chấm dứt khổ đau. Đó là trí tuệ, là hiểu biết, là nhận thức được sự thật về bản thân và về cuộc đời. Trí tuệ này, cái thấy này đưa lại sự chấm dứt của mọi sầu đau và làm phát sinh niềm an lạc.

Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ tư: con đường diệt khổ. Đó là con đường Bát chánh mà tôi đã trình bày. Bản chất của Bát chánh đạo được nuôi dưỡng bằng nếp sống tỉnh thức hàng ngày, đó tức là chánh niệm. Chánh niệm đưa tới Định và Tuệ, có năng lực giải thoát con người khỏi mọi niềm đau và đem lại mọi an vui. Tôi sẽ hướng dẫn cho các vị từng bước trên con đường thực hiện này.

Trong khi Siddhatta giảng giải về bốn sự thật mầu nhiệm, sa môn Kondanna bỗng thấy tâm mình bừng sáng. Ông thấy được lập tức con đường giải thoát thật sự mà lâu nay ông tìm kiếm. Nét mặt ông rạng rỡ. Thấy thế, Bụt chỉ vào ông và nói lớn:

- Sa môn Kondanna! Bạn đã hiểu! Bạn đã hiểu!

Kondanna chắp tay quỳ xuống bên ghế ngồi của Bụt. Ông thành kính nói:

- Sa môn Gotama, xin thầy hãy nhận Kondanna này làm học trò của thầy. Kondanna biết rằng dưới sự chỉ dạy của thầy, Kondanna sẽ thành đạt nguyện lớn.

Bốn vị sa môn kia thấy vậy cũng quỳ xuống cả dưới chân Bụt và chắp tay cầu xin Bụt nhận họ làm đệ tử. Bụt đỡ cả năm người dậy. Người bảo họ ngồi lên ghế. Người cũng ngồi xuống chỗ ngồi cũ của mình. Bụt nói:

- Này quý vị! Bọn trẻ trong làng Uruvela đã đặt tên cho tôi là Bụt. Có lẽ quý vị cũng có thể dùng danh từ ấy để gọi tôi.

Kondanna hỏi lại:

- Bọn con nít gọi sa môn Gotama là Bụt? Bụt có nghĩa là “người tỉnh thức"?

- Đúng như vậy, và chúng gọi con đường mà tôi tìm ra là “đạo tỉnh thức". Các thầy nghe có được không?

- Người tỉnh thức! Đạo tỉnh thức! Hay lắm! Hay lắm! Danh xưng vừa chính xác, vừa đơn giảnthân mật. Chúng con xin từ nay gọi thầy là Bụt và nền đạo lý mà thầy tìm ra là đạo Bụt. Đạo tỉnh thức. Đúng lắm, bởi vì nếp sống tỉnh thức hàng ngày, như thầy nói, là căn bản cho sự tu hành.

Năm người đã đồng ý tôn sa môn Gotama làm thầy, bây giờ đều đồng ý gọi sa môn là Bụt.

Bụt mỉm cười nhìn họ:

- Xin các vị tinh tiến tu hành. Con đường đã tìm ra được. Nếu quý vị thực tập nghiêm chỉnh thì chỉ trong vòng ba tháng quý vị sẽ đạt tới quả vị giải thoát.

Bụt ở lại Isipatana một thời gian để dạy dỗ cho năm vị sa môn. Họ vâng lời Bụt chấm dứt lối tu khổ hạnh. Mỗi ngày ba vị luân phiên cầm bát đi khất thực trong xóm. Trưa về, ba người san sẽ thức ăn xin được cho ba người ở lại, trong đó có Bụt. Bụt ở lại để hướng dẫn sự tu học cho mọi người. Năm vị tu học rất tinh tiến và ngày nào cũng đạt được nhiều tiến bộ.

Bụt dạy cho họ về tự tính vô thườngvô ngã của vạn vật. Người phân tích cho họ thấy năm uẩn đều như những dòng sông luôn luôn trôi chảybiến đổi, trong đó không có một cái gì có thể gọi là đồng nhất và bất biến. Năm uẩn tức là thân thể (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm hành (hành) và nhận thức (thức).

Bụt dạy họ quán sát sự trôi chảy của năm dòng sông ấy trong tự thân của mỗi người để có thể thấy được tính vô thườngvô ngã của chúng và của vạn hữu, và cũng để thấy những liên hệ mật thiếtmầu nhiệm giữa vũ trụbản thân mình.

Nhờ sự tu học tinh chuyên, năm vị dần dần đạt được cái thấy mầu nhiệm. Người đầu tiên chứng ngộ là Kondanna. Rồi hai tháng sau là đến phiên Vappa và Bhaddhiya. Cuối cùng Mahanam và Assaji cũng đạt tới quả vị A la hán.

Bụt rất vui mừng. Ngưòi nói:

- Chúng ta đã có đoàn thể xứng đáng với tên gọi sangha, đoàn thể của những người biết sống cuộc đời tỉnh thức, rồi đây quý vị sẽ phải cùng với tôi đem những hạt giống của đạo tỉnh thức gieo rắc khắp mọi nơi.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1650)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1582)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1497)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1475)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1335)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1388)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1714)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1978)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2031)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1475)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1563)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1392)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2911)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1378)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1411)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1733)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1682)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1607)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1408)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1568)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1446)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1434)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1522)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2206)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1553)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1513)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1847)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1536)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1418)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1675)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1714)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2393)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1474)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1964)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1683)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1763)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1622)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1956)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1442)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1731)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1550)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1255)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1299)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant