Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bố thí với tâm thành

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10671)
Bố thí với tâm thành


BỐ THÍ VỚI TÂM THÀNH


Thời đức Phật còn tại thế, có một trưởng giả Tu-đạt là nhà giàu nhất nước Kiều-tát-la do vua Ba-tư-nặc trị vì. Một hôm, sau chuyến buôn hàng sang nước Ma-kiệt-đà, mua bán xong ông về nhà người anh rể nghỉ ngơi. Thường lệ, khi ông về tới, mọi người trong nhà đều ra ngõ đón tiếp ân cần, nhưng hôm nay ông thấy không ai để ý đến ông cả, thật lạ lùng. Ông lấy làm ngạc nhiên hỏi người anh rể, thì ra cả nhà đang bận rộn việc chuẩn bị đồ ăn, thức uống để cúng dường 1250 vị Tỳ-kheo trong Tăng đoàn của đức Phật. Lần đầu tiên nghe đến đức Phật, Tu-đạt thắc mắc với người anh rể:

 - Phật là gì mà mọi người tôn kính đến thế?

Người anh rể bảo rằng:

- Đức Phật trước đây là Thái tử Tất-đạt-đa, con vua Tịnh-phạn và Hoàng hậu Ma-da, ông là người được kế thừa ngôi vua, mà ông từ bỏ ngôi vị, cung điện nguy nga, vợ đẹp, con xinh xuất gia tu hành, nay đã chứng quả Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tu-đạt nghe qua, bổng trong lòng cảm thấy bồn chồn muốn được gặp đức Phật ngay tức khắc, nhưng lúc này là ban đêm, trời tối đành để lại sáng mai. Vì mong mỏi gặp đức Phật nên cả đêm hôm ấy ông thổn thức trong lòng không thể nào ngủ được.

Tờ mờ sáng hôm sau, ông đã có mặt tại Tịnh xá Trúc Lâm, nơi đức Phật tịnh dưỡng. Vừa vào tới, ông nghe một giọng nói trầm hùng: “Này Tu-đà Cấp Cô Độc, thời cơ đã đến rồi đó.” Tu Đạt rất đỗi ngạc nhiên, tại sao cái tên Tu-đà của ta chỉ có người trong gia tộc ta mới biết và không ai được gọi, thế mà ở đây lại có người biết và gọi mình cái tên này? Tu Đạt nghĩ rằng, hay là ở đây có người bậc trên của gia tộc mình? Trong lúc còn đang ngơ ngẩn, ông thấy một người tướng mạo trang nghiêm, điềm đạm đi tới gần ông và nói rằng:

- Ta là người mà ông muốn gặp đây.

Tu-đạt liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, trong lòng cảm thấy dấy lên niềm phấn khởi vô biên đến rơi nước mắt. Và ngay lúc đó, ông được đức Phật khai thị pháp môn căn bản cho người tại gia.

Nghe xong bài pháp, Tu-đạt Cấp Cô Độc chứng quả Tu-đà-hoàn, nghĩa là được vào dòng Thánh, không còn đọa lạc trong ba đường dữ: địa ngục, súc sanhngạ quỷ. Sau đó ông phát nguyện quy y Tam Bảo, giữ năm điều đạo đứcphát tâm cúng dường hộ trì Tam Bảo, suốt đời giúp đỡ người nghèo khó. Nhờ tín tâm thuần thục, ông xin đức Phật cho xây dựng một Tịnh xá lớn để chư Tăng có chỗ tu hành. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của ông. 

Cấp Cô Độc có nghĩa là cung cấp sự cần thiết cho người cô độc, côi cút, không nhà cửa, không người nuôi dưỡng, nghèo khổ. Trong đời, ông vốn cũng đã có lòng nhân từ, thường giúp đỡ người không phân biệt thân, sơ. Đến khi gặp đức Phật, ông càng mở rộng lòng nhân từ.

Từ đó, ông đi tìm mua một khu đất rộng rãi, địa điểm thuận lợi, để xây dựng một Tịnh xá lớn cho chư Tăng tu tập, hành trì. Ông tìm mãi mà không thấy nơi nào vừa ý ngoài khu vườn của Thái tử Kỳ-đà con vua Ba-tư-nặc. Biết Thái tử không bao giờ bán đất, nhưng vì quá ưa thích, ông bạo gan đến hỏi mua, Thái tử Kỳ-đà bảo rằng:

- Tôi sẵn sàng bán khu vườn cho ông với điều kiện ông về đem vàng miếng trải đến đâu tôi bán đến đó.

Không ngờ, Cấp Cô Độc đồng ý, cho người nhà chở vàng đến lót gần kín khu vườn, chỉ còn một khoảnh nữa là xong. Trong lúc chờ người nhà chở vàng đến tiếp, ông đứng trầm tư, Thái tử Kỳ-đà đến hỏi:

- Ông tiếc của hay sao mà đứng ngẫn người ra như thế?

Cấp Cô Độc trả lời:

- Thưa Thái tử, không phải thế đâu. Tôi đang tính xem lấy vàng ở kho nào cho thuận lợi mà.

 Nghe vậy, Thái tử Kỳ-đà cảm phục tấm lòng cao cả của ông đối với đức PhậtTăng đoàn, Thái tử tuyên bố:

- Kể từ giờ phút này, đất khu vườn này thuộc về ông, ông được quyền xây dựng Tịnh xá cho chư Tăng tu tập, tôi chỉ nhận số vàng theo giá trị đất, còn rừng cây trong vườn tôi xin dâng cúng cho Tăng đoàn của đức Phật.

 Ngày nay, đọc các bản kinh, chúng ta thường thấy: Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật ở rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc…Đây chính là Tịnh xá trong khu vườn do Cấp Cô ĐộcThái tử Kỳ-đà cúng dường. Đặc biệt, trong 49 năm thuyết pháp, đức Phật đã trú tại Tịnh xá này trong 25 mùa An cư kiết hạ.

Nói về Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi gặp đức Phật, ông luôn hết lòng tôn kính cúng dường Tam Bảo và giúp đỡ người cô độc bần cùng với lòng chí thành chí kính của mình. Suốt mấy chục năm thực hành bố thí cúng dường, cuối cùng tài sản nhà ông cũng cạn kiệt, như trăng sáng đến lúc tàn, như bị lũ lụt cuốn trôi, ông hết gia tài sự nghiệp, cho đến khi cả nhà ông phải dùng cháo thay cơm mỗi bữa, nhưng ông vẫn sớt bớt phần ăn của mình để cúng dường chư Tăng, mặc cho đức Phật khuyên ông không nên cúng dường nữa.

“Sau cơn mưa trời lại sáng,” “hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai,” chẳng bao lâu sau, gia đình ông làm ăn mua bán trúng mùa, làm gì trúng nấy, lợi nhuận thu được nhiều vô số kể, ông có lại tài sản của cải nhiều hơn số tài sản, vàng bạc bị cuốn trôi theo dòng thác thực hành bố thí, cúng dường trước đây. Và ông tiếp tục thực hành bố thí, cúng dường như trước.

Đạo lý nhân quả nhà Phật giúp ta sáng ngời tình nhân loại trong hạt giống từ bi của hạnh bố thí. Đó là hạt nảy mầm quả giác ngộgiải thoát. Qua đó, ta thấy hành động bố thí quan trọng ở tâm chân thành và lòng kính cẩn như trường hợp của Cấp Cô Độc, một lòng gieo duyên với ruộng phước lớn. Và ông đã chứng quả “bất thoái chuyển” ngay trong hạnh này.

Chúng ta không nghi ngại gì cả, phát tâm bố thí cúng dường là gởi tiền vào ngân hàng “Nhân quả” được bảo toàn nguyên vẹn lại được sinh lời, khi nào ta cần ngân hàng “nhân quả” này sẽ chi cấp cho ta sử dụng không để ta thiếu thốn.

Trở lại câu chuyện Thái tử Kỳ-đà và Cấp Cô Độc, khu vườn của Thái tử Kỳ-đà là nơi lý tưởng để xây dựng Tịnh xá, nhưng Thái tử Kỳ-đà giàu có đâu cần tiền, đâu cần bán đất, nên Thái tử nói thách cao như vậy để Cấp Cô Độc thối tâm, thối chí. Không ngờ Cấp Cô Độc đồng ý. Thái tử Kỳ-đà bàng hoàng sửng sốt khi thấy Cấp Cô Độc chở nhiều xe vàng đến lót gần kín đất khu vườn, làm cho Thái tử động lòng trắc ẩn, vui vẻ bán khu vườn, nhưng không nỡ nhận đủ tiền bán cả đất lẫn vườn cây, mà Thái tử chỉ nhận tiền đất còn rừng cây ông phát tâm cúng dường cho đức Phật. Đây là tịnh xá thứ hai sau khi Phật thành đạo, và thứ nhất là Trúc Lâm Tịnh Xá do vua Tần-bà-sa-la cúng dường tại thành Vương-xá.

Ngoài việc mua đất xây dựng Tịnh xá, Tu-đạt còn thường xuyên cúng dường tứ sự cho chư Tăng. Ông phát tâm cúng dường Tam Bảo không mệt mỏi, nhàm chán, ông còn luôn bố thí giúp đỡ những người cô độc nghèo khó không nơi nương tựa. Vì vậy, ông được quần chúng nhân dân tặng danh hiệu Cấp Cô Độc.

Trong lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng về hạnh bố thí cúng dường để chúng ta học hỏi noi theo. Con người muốn hoàn thiện nhân cách, lối sống, đạo đức … phải có sự học hiểu và tu tập hành trì. Người có niềm tin sâu vào Tam Bảo, được chứng quả bất thối chuyển, người đó dù có gặp nghịch cảnh, khó khăn như thế nào, họ cũng giữ vững tấm lòng tốt của mình. Cấp Cô Độc là người như vậy, cho nên từ ngày ấy cho đến bây giờ mọi người, mọi giới, mợi thành phần đẵng cấp trong xã hội ngưỡng mộ, đều quý kính Ngài.

Bố thí cúng dườngcon đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại ngày thêm sâu sắc, gần gũi, gắn bó với nhau hơn và sự giúp đỡ, sẻ chia cùng nhau là cách thức xóa bỏ ân oán hận thù để ngồi lại bên nhau, dùng tình thương xây dựng cuộc đời.

Bố thí cúng dường là nấc thang đầu tiên của hàng Bồ-tát để từng bước tiến lên con đường Phật đạo. Nhờ bố thí cúng dường mà tâm ta được an lạc, thảnh thơi, thấy ai cũng là người thân thương của mình, không còn thấy ai là kẻ thù, nên mọi người dễ dàng gắn bó yêu thương hơn.

Trong dân gian Việt Nam thường nói “Ăn thì hết, cho thì còn.” Câu nói này nghe như ngược đời, nhưng thực tế quả thực không sai, cái gì ta tiêu xài, hưởng thụ cho riêng mình thì không còn, cho nên nói “ăn thì hết.” Còn cái gì ta đem giúp người thì đó mới là cái để dành, cho nên nói: “cho thì còn” là vậy.

Phật dạy, người biết gieo trồng phước đức thì trong hiện tại và tương lai được đầy đủ, giàu có như ta có tiền gửi ngân hàng rút dần ra xài, còn người không biết gieo trồng phước đức thì như người có đồng nào xài đồng nấy, luôn phải chịu nghèo khó, vất vả cả đời mà chẳng có của dư.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1535)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1667)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1637)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1041)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1520)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1502)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1948)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1539)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1364)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1374)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1562)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1152)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1274)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1700)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3014)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1828)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1368)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1415)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1327)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1695)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1896)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2396)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1787)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2135)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2241)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2305)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1860)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1982)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2037)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1961)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2598)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1950)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1895)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1949)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1899)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2173)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2320)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1991)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2102)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1889)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1916)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2424)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2329)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4010)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2499)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3206)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2485)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2052)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1804)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3317)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2351)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3036)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant