Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phước đức và công đức

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 26631)
Phước đức và công đức


PHƯỚC ĐỨC VÀ CÔNG ĐỨC


Công đứcphước đức khác nhau thế nào?

Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình rồi từ đó mỗi lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai trái, không bị dính mắc hay trói buộc.

Còn phước đứcdiệu dụng của công đức, là kết quả của hành vi làm các việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, chia sẻ vật chất, tinh thần giúp người bớt khốn khổ v.v…tạo nên những nhân tốt.

Người làm việc phước đức nhiều được hưởng quả phú quý, giàu sang, của tiền dư dật ở thế gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng đến khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, trở lại trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có nguời công đức đầy đủ không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.

Để hiểu rõ công đứcphước đức khác nhau thế nào, chúng ta cùng nghe câu chuyện thời đức Phật:

Có một Tỳ-kheo tu hành đã chứng quả A-la-hán, không còn bị tham, sân, si chi phối trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người chứng quả A-la-hán sẽ bất động trước mọi nghịch cảnh cuộc đời.

Do nhiều đời tích lũy công đức nên vị Tỳ-kheo này trong đời hiện tại được duyên tu hành chứng quả, nhưng do đời trước không làm phước đức gieo duyên với mọi người, lại còn phỉ báng, ngăn cản người khác thực hành bố thí, cúng dường, nên sanh ra trong đời này Ngài phải chịu khổ đau một thời gian dài. Ngài bị mẹ bỏ rơi lúc 3,4 tuổi, được ngài Xá Lợi Phất đem về nuôi cho xuất gia đầu Phật. Và cuộc đời tu hành của Ngài rất cam go, khổ nhọc, thiếu thốn trăm bề, cho đến khi chứng quả A-la-hán mà Ngài vẫn chưa được một bữa cơm nào thật no đủ. Do nghiệp đời trước ngăn cản người bố thí, cúng dường mà đời nay Ngài phải chịu lãnh quả thiếu ăn suốt đời như vậy.

Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công bằng không có sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn lựa, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau.

Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu, do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo, nên không buồn đau sầu khổ. Thân này tuy chịu quả thiếu thốn đói khát, nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh.

Người khôn ngoan phải biết chọn lựa con đường tốt đẹp dẫn đến an vui hạnh phúc, biết làm phước để tích lũy, nếu không biết tích lũy thêm phước đức, đến khi hết phước sẽ gặp tai họa.

Còn công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét, cho nên vị Tỳ kheo ấy dù bị đói khát, thiếu thốn nhưng không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó. Và đó cũng là chỗ khác nhau của công đứcphước đức.

Để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của công đứcphước đức chúng ta hãy nghe câu chuyện thiền như sau:

Tổ Bồ-đề-đạt-ma là vị tổ thứ 28 ở Ấn Độ, do nhu cầu hoằng pháp nên Ngài đã đến Trung Hoa gặp vua Lương Võ Đế. Vua hỏi: “Trẫm thường cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống rất nhiều vậy có công đức không?

Tổ đáp: “Thảy đều không công đức.”

Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra nghi ngờ hỏi tiếp. Tại sao không công đức?

Tổ đáp: Đó là phước báu thế gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, thông minh, mẫn tiệpcõi trời, người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc lâu dài.

Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao cả, nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh, “tá hỏa tam tinh.” Bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức.

Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Bởi đa số người đời thường lầm chấp thân và tâm suy tư, nghĩ tưởng của mình là thật nên làm cái gì cũng tìm cách chiếm đoạt, vơ vét bồi bổ cho cái thân xác để hưởng thụ cảm xúc. Vua Lương nghĩ rằng, cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức, nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình, mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật.

Bởi vì nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Nhà vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên các vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh, vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Còn chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng các tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, để sống lại với tâm sáng suốt của mình (Phật tánh). Từ đó, nhà vua sẽ không còn có bóng dáng của sợ hãi, khổ đau mà hằng an lạc thảnh thơi chan hòa tình thương đến muôn loài.

 Cho nên đến với đạo Phật có hai hình thức: tại giaxuất gia. Song xuất gia là số ít, còn đại đa số là người tại gia. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, thấy tất cả mọi người đều là người thân, người thương của mình, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy người xuất gia nêu cao tinh thần hy sinhTam Bảo, còn người tại gia ngoài việc lo cho gia đìnhxã hội, thấu hiểu lý nhân quả, nghiệp báo cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia (chư Tăng Ni) có điều kiện, thời gian tu họchành trì.

Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm. Bởi Ngài là vua một nước, trăm công, ngàn việc, nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời gian làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, giúp cho dân chúng an cư lạc nghiệp, sống trên tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội.

Người người theo Phật tu nhân thiện

Mười phương thế giới dứt binh đao.

Việc làm của vua Lương Võ Đế quả thậttuyệt vời đối với cuộc sống thế gian, nhưng vì Ngài lầm chấp cho rằng đó là cứu cánh của đạo Phật nên mới hỏi Tổ: “Con cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống có công đức không?”

Tổ đáp: Đều không công đức.

Vua hỏi tiếp: Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa?

Tổ đáp: Rỗng rang không Thánh.

Thánh đế đệ nhất nghĩa là chỉ cho thật tướng vô tướng rỗng lặng sáng suốt thanh tịnh nơi mỗi con người. Bởi vua chạy theo danh tựhình tướng bên ngoài nên không nhận ra trong mình có ông Thánh đang hiện diện sờ sờ. Vì vậy vua hỏi:

- Đối diện trẫm là ai?

-Tổ đáp: không biết!

Đến thời Lục Tổ Huệ Năng, có người đọc đoạn đối đáp của vua Lương Võ Đế với Tổ Bồ-đề-đạt-ma mới hỏi, Tổ đáp: Thật khôngcông đức, chớ nghi lời bậc Thánh nói. Vì vua Lương Võ Đế không hiểu được yếu nghĩa khai thị trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật” nên cho rằng cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh bố thícông đức, thực chất đó chỉ là làm phước, không thể đem phước đổi công đức được.

Công đức là do tu tâm mà được; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâmbản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết.

Còn những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của trời, người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải quyền thế, hưởng thụ vật chất đầy đủ, song hưởng thụ phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử. Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình, sanh tâm cống cao, ngã mạn, nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn họ mà còn sanh tâm coi thường khinh rẽ họ, không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu nữa.

Vì vậy, là người con Phật, chúng ta phải biết quân bình, một mặt tích lũy phước báu. Nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật, dù có bố thí đúng dường, làm nhiều phước thiện, cũng đều là công đức cả, vì họ làm trong vô tâm.

Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm lợi ích, không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi hoàn cảnh trái ngang. Nếu ta biết kết hợp làm phước và tu tâm, thì khổ đau sẽ không có mặt trong hành trình cam go của cuộc đời.


Ý kiến bạn đọc
22 Tháng Giêng 202106:25
Khách
Chính xác rồi, chắc đây là bài viết của 1 người đã thấu hiểu, đã giác ngộ.
14 Tháng Sáu 201801:33
Khách
Xin hỏi ai là tác giả của bài viết này ?
14 Tháng Sáu 201801:25
Khách
"Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng đến khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, trở lại trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có nguời công đức đầy đủ không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh."
là bài kinh nào vậy ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11481)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12650)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11043)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11794)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13672)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11913)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11183)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12209)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12412)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20606)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12438)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12466)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11729)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11604)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22441)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29699)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16757)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12017)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16853)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17936)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13179)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14772)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22637)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14056)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13879)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13728)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13879)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13950)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14842)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13863)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18428)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22812)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15406)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17332)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14273)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12595)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11180)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13218)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13114)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18808)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17188)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13518)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12928)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14706)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14665)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15882)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13524)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27448)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13255)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16737)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant