Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vua Tần Bà sa La

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 23422)
Vua Tần Bà sa La

MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN CỦA PHẬT 
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư - Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
biên soạn phần Phụ Lục - Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Chùa Liên Hoa, Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County xuất bản 2005

PHỤ LỤC
(Do cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn thêm)

Vua TẦN BÀ SA LA

(Bimbisara) 
(Vị đệ tử tại gia đầu tiên của Phật trong hàng vua chúa)

 

Vua Tần Bà Sa La (cũng gọi là Bình Sa) trị vì vương quốc Ma Kiệt Đà, đóng đô tại thành Vương Xá. Kinh đô này trước kia đã bị một cơn hỏa hoạn lớn tàn phá, và chính nhà vua đã xây dựng lại hoàn toàn mới mẻ.

Vua có hoàng hậu là Vi Đề Hi (Vaidehi - Videhi), sinh được một con trai là thái tử A Xà Thế. Cả vua và hoàng hậu đều sùng kính và tin Phật một cách sâu sắc, và là những đệ tử tại gia đầu tiên của Phật trong hàng vua chúa.

Khi còn là là thái tử, nhà vua đã từng có người yêu là Am Bà Bà Lị (Amrapali - Ambapali), một ca nữ nhan sắc, tiếngười tăm lừng lẫy ở thành Tì Xá Li (Vaisali - Vesali). Bà sinh một con trai với nhà vua, đó là y sĩ Kì Bà (Jivaka). Dù là một ca nhi, nhưng bà đã không chịu trình diễn ở những nơi chốn tạp nhạp, mà chỉ trình diễn ở những nhạc hội trong cung đình, ở dinh thự của các hàng thân quốc thích, hoặc trưởng giả quí tộc. Tuy vậy, khi nhà vua lên ngôi, triều đình không muốn nhà vua có một bà phi là ca nhi, nên bà và hoàng tử Kì Bà đã không được công nhận, và cũng không được nhập cung. Nhà vua phải xây cất phủ riêng ở Tì Xá Li cho hai mẹ con ở, và chu cấp đầy đủ mọi thứ để hai mẹ con có được một cuộc sống sung túc của một nhà quí tộc. Cả hai mẹ con về sau đều qui y Phật, trở thành những đệ tử thuần thành của Ngài. Bà đã cúng dường khu vườn xoài to lớn của bà ở thành phố Tí Xá Li cho Phật và giáo đoàn để làm nơi hành đạo. Khi ni sư Kiều Đàm Di vừa thành lập ni đoàn, bà đã để cho ni chúng tạm trú trong khu vườn xoài này trong khi chờ đợi xây dựng ni viện, còn Kì Bà thì vừa là ngự y của vua, vừa là y sĩ thường trực chăm lo sức khỏe cho Phật và tăng chúngTrúc Lâm và Linh Thứu. Ông cư trú trong một khu vườn xoài ở gần núi Linh Thứu để tiện hầu Phật và chư tăng. Về sau cả hai mẹ con đều được Phật chấp thuận cho xuất gia

Vua cũng có một bà quí phi là Sấm Ma (Khema), vừa nhan sắc lại vừa thông minh, nên tính tình rất tự cao. Từ khi được nghe giáo phápqui y làm đệ tử tại gia của Phật thì bà dần tỉnh ngộ, tâm tính chuyển hóa, trở thành một người khiêm cung, hiền thục. Sau khi ni đoàn được thành lập, bà xin xuất gia, tu học tinh chuyên, chứng quả A la hán, trở nên một nhân vật quan trọng trong hàng lãnh đạo ni chúng. Sau khi ni trưởng Kiều Đàm Di viên tịch, bà đã được Phật cử làm ni trưởng để hướng dẫn ni chúng.

Nhà vua lên ngôi năm mười lăm tuổi, và được gặp Phật lần đầu tiên năm hai mươi lăm tuổi. Hồi đó đức Phật đang là một vị sa môn trên đường tìm thầy học đạo - và thường được gọi là sa môn Cồ Đàm. Sau khi tìm đến vùng ngoại ô phía Bắc thành Tì Xá Li để theo học với đạo sĩ A La Lam (Arada Kalama - Alara Kalama), và không thấy thỏa mãn, sa môn Cồ Đàm đã xin từ tạ thầy ra đi, quyết tìm cho được một vị chân sư có thể chỉ dạy cho con đường giải thoát sinh tử. Ngài đi vào nội địa nước Ma Kiệt Đà, tìm đến nhiều đạo tràng khác nhau, nhưng không nơi nào giúp được ước nguyện của Ngài. Ngài đi lần đến một ngọn đồi ở gần thành Vương Xá, và ẩn cư tại đó. Một hôm, Ngài ôm bát đi vào thành khất thực. Tình cờ xa giá vua Tần Bà Sa La đi ngang qua. Thấy tướng mạo đoan nghiêm và dáng vẻ khoan thai khác thường của vị sa môn, ông cho dừng xe lại để quan sát. Sau đó, ông lại cho người lén theo Ngài về đến nơi ẩn cư cho biết chỗ. Hôm sau, ông đích thân lên tới nơi để thăm hỏi Ngài. Vừa gặp Ngài là ông sinh lòng kính phục và cảm mến ngay. Ông tự giới thiệu mình là quốc vương nước Ma Kiệt Đà.

Qua mấy lời chào hỏi, nhà vua đã thỉnh Ngài về hoàng cung ở để dạy dỗ, nhưng Ngài đã khéo léo từ chối, và nói cho ông biết chí hướng thật sự của Ngài. Ngài cũng nói rõ về gia thế của Ngài. Sau khi hiểu rõ thân thế và lí tưởng cao cả của Ngài, ông lại khâm phục và mến mộ; tự coi mình như đã là đệ tử của Ngài. Ông cầu khẩn, nếu sau này thành tựu được đạo giải thoát, xin Ngài nhớ trở lại chỉ dạy cho ông. Ngài hứa khả.

Sau buổi gặp gỡ hữu duyên đó, sa môn Cồ Đàm đã rời chỗ ẩn cư để tiếp tục con đường tìm đạo, và vua Tần Bà Sa La đã gặp Phật trở lại vào năm ông được ba mươi mốt tuổi; lúc đó Ngài đã thành tựu đạo quả giác ngộ.

Sau khi thành đạo, đức Phật đã đi đến vườn Nai (Mrgadava - Migadava) ở gần thành Ba La Nại (Varanasi - Baranasi), nước Ca Thi (Kasi), chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên, hóa độ nhóm năm vị sa môn Kiều Trần Như, và ngự ở đó gần một năm. Sau đó Ngài đi lần hồi về kinh thành Vương Xá để thực hiện lời hứa năm xưa với vua Tần Bà Sa La.

Khi vừa biết tin đức Phật đã về đến kinh thành, và đang cùng chúng tăng cư trú tạm trong một khu rừng ở phía Nam thành phố, vua Tần Bà Sa La liền dẫn hoàng hậu, thái tử, cùng các quan văn võ và hàng trăm đạo sĩ Bà la môn, đến tận khu rừng để yết kiến Phật. Sau khi được nghe Phật thuyết pháp, tâm tư nhà vua bừng sáng, bao nhiêu nghi nan chất chứa trong lòng bấy lâu, nay đều được giải tỏa. Vua sụp lạy Phật và thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Thuở nhỏ trẫm có năm điều ước nguyện. Thứ nhất là được lên ngôi vua; thứ hai là được gặp một thầy giác ngộ; thứ ba là có duyên may được kính ngưỡng vị giác ngộ ấy, thứ tư là được vị giác ngộ ấy dạy cho con đường chân chính; thứ năm là mình có đủ khả năng lãnh hội được giáo pháp do vị giác ngộ ấy chỉ dạy. Bạch Thế Tôn! Đến hôm nay thì cả năm điều ước nguyện ấy đều được thành tựu. Trẫm đã lãnh hội được giáo lí mà Ngài vừa dạy. Xin Thế Tôn thương xót nhận cho trẫm được làm đệ tử tại gia của Ngài!

Đức Phật hoan hỉ chấp thuận. Nhà vua thỉnh Phật và hàng ngàn tăng chúng tháp tùng Ngài, sau đó vào hoàng cung để thọ lễ trai tăng do đích thân vua và hoàng hậu cúng dường. Có cả sáu ngàn tân khách đã được nhà vua mời đến cùng tham dự lễ. Sau lễ trai tăng, Phật thuyết pháp trước tất cả mọi người trong hoàng cung và tân khách.

Để cảm tạ ân sâu của Phật, nhà vua đã cúng dường khu rừng trúc ở ngoại ô phía Bắc kinh thành để Phật và giáo đoàn làm cơ sở đạo tràng cố định. Một ngôi tu viện bề thế, qui củ, rộng rãi đầu tiên của giáo đoàn đã được xây dựng tại đây, và được đặt tên là Trúc Lâm. Tu viện xây xong thì vừa đến mùa mưa; nhân đó, chính tại tu viện này, đức Phật đã chính thức thiết lập truyền thống an cư hàng năm cho giáo đoàn. Đó là năm thứ hai sau ngày thành đạo; và cũng là mùa an cư thứ nhì của đức Phật. Nhà vua rất siêng đến Trúc Lâm thăm Phật và nghe pháp, và đã xây tại tu viện một giảng đường có thể chứa hơn hai ngàn người ngồi nghe pháp.

Gần khu rừng trúc này có một ngọn núi tên là Linh Thứu, nằm về hướng Đông Bắc của kinh thành, sau đó cũng trở thành một đạo tràng rất quan trọng của Phật. Trên đỉnh núi có pháp đàn, có tịnh thất của Phật, có thạch động của quí vị đệ tử của Phật. Mỗi khi có Phật về ngự trên núi, vua Tần Bà Sa La đều lên núi thăm Phật và nghe pháp. Nhà vua đã cho xây mấy trăm bậc cấp bằng đá, làm thành một con đường kéo dài từ chân núi lên đến tịnh thất của Phật.

Đức Phật thường vân du khắp mọi nơi để bố giáo, không cư trú lâu dài tại một địa phương nào. Bởi vậy để tỏ lòng biết ơn giáo hóa của Phật, và để được thường xuyên nhìn thấy Phật, vua Tần Bà Sa La đã xây một ngôi tháp đựng tóc và móng tay của Phật ngay trong vườn ngự uyển, hằng ngày chiêm bái. Vua cắt cử riêng một người chỉ lo việc chăm sóc, quét tước va tưới bón hoa cỏ quanh tháp. Mỗi ngày đều xông trầm, thắp đèn trước tháp để cúng dường.

Khi nhà vua được sáu mươi bảy tuổi thì tai biến xảy ra. Thái tử A Xà Thế nghe lời đại đúc Đề Bà Đạt Đa xúi giục, âm mưu giết vua để chiếm ngôi. Một hôm đang lúc đêm khuya, thái tủ đột nhập vào tẩm điện của vua. Thấy dáng vẻ khả nghi, ngự lâm quân đã chận thái tử lại để xét, thì tìm thấy một thanh gươm được giấu trong chéo áo của thái tử. Họ đưa thái tử vào trình diện vua, kể lại tự sự, và trình lên vua thanh gươm. Vua vặn hỏi thì thái tử nói rằng, vì muốn lên làm vua nên định giết cha. Thái tử cũng thú nhận là mình đã được đại đức Đề Bà Đạt Đa bày vẽ và sắp đặt mưu kế.

Vốn được thấm nhuần đức từ bi của Phật, nhà vua đã không giận con mình, mà cũng không giận đại đức Đề Bà Đạt Đa. Đã vậy, vua còn quyết định hạ chiếu thoái vị, nhường ngôi cho thái tử A Xà Thế. Lễ đăng quang của thái tử sẽ được tổ chức mười ngày sau đó. Làm như vậy, nhà vua hi vọng A Xà ThếĐề Bà Đạt Đa sẽ cảm được đức độ của mình mà hồi tâm hướng thiện.

Nhưng thay vì hồi tâm hướng thiện, hai ngày sau khi tờ chiếu thoái vị được ban hành, thái tử đã bắt nhà vua giam vào ngục thất. Sau lễ đăng quang, A Xà Thế vẫn không chịu trả tự do cho nhà vua, lại còn quyết tâm bỏ đói cho chết dần. Chỉ có một mình hoàng hậu được phép vào thăm nom vua. Mỗi lần vào thăm, bà giấu thức ăn trong túi áo đem vào cho chồng. A Xà Thế biết được, quở trách bà. Những lần sau, bà lại giấu cơm trong búi tóc, nhưng cũng bị phát giác. Cuối cùng, bà tắm rửa sạch sẽ, rồi thoa vào mình một thứ đồ ăn làm bằng bột, mật ong và sữa. Vua gợt lấy thức ăn này tạm nuôi sống, nhưng A Xà Thế cũng biết được, và cấm hẳn bà không được phép vào thăm nữa.

Bấy giờ, nhà vua cam chịu đói, nhưng lòng vẫn không oán trách con. Nhớ lời Phật dạy, nhà vua vẫn sống an lạc và bình thản, vẫn thiền hành theo hành lang nhà ngục, và thiền tọa nơi cửa sổ có chấn song sắt. Cửa sổ này ngó thẳng lên núi Linh Thứu, vì vậy, mỗi ngày nhà vua đều ngồi rất lâu chỗ đó để nhìn lên núi. 

Sau lần bị đại đức Đề Bà lăn đá hãm hại ở núi Linh Thứu, thì vua Tần Bà Sa La cũng bị giết trong ngục thất. Cái chết của nhà vua thật vô cùng thê thảm! Nguyên vì, A Xà Thế thấy vua cha vẫn vui tươi, không có vẻ gì buồn đau sợ sệt, thì bực bội lắm, quyết giết đi cho khuất mắt, bèn ra lệnh cho người thợ cạo vào ngục, lấy dao bén gọt gót chân nhà vua, xát dầu và muối vào, rồi hơ trên lửa cho đến chết.

Vua Tần Bà Sa La nhỏ hơn Phật năm tuổi, mất năm sáu mươi bảy tuổi, ở ngôi được năm mươi hai năm.

Ngày thượng hoàng Tần Bà Sa La băng cũng là ngày chánh hậu vua A Xà Thế hạ sinh hoàng nam. Trong nỗi vui mừng được làm cha, vua A Xà Thế bỗng cảm thấy tình thương của một người cha lần đầu tiên chớm nở trong lòng. Tình thương ấy sao là đậm đà, trong sạch và sâu sắc. Vua bèn chạy đi tìm thái hậu để hỏi về tình thương của thượng hoàng ngày xưa đối với mình. Nhân cơ hội đó, thái hậu Vi Đề Hi liền kể cho con nghe về tình thương vô biên mà thượng hoàng Tần Bà Sa La đã dành cho nhà vua hồi còn là một thái tử ngây thơ. Nghe xong, vua A Xà Thế liền cảm thấy trong lòng dâng cao một niềm hối hận tột cùng. Từ đó, cái chết của vua cứ ám ảnh nhà vua, làm cho tinh thần căng thẳng, mất ngủ trầm trọng. Các đạo sĩ Bà la môn đã bó tay, mà y sĩ Kì Bà cũng chữa mãi không khỏi. Thế rồi, Kì Bà khuyên nhà vua nên đến xin yết kiến đức Phật. Nhà vua nghe lời, Được gặp Phật và được nghe những lời dạy dỗ cùng khuyên giải của Ngài, nhà vua tỉnh ngộ và lành bệnh. Cuối cùng, vua bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã soi sáng cho con. Thế Tôn đã rọi ánh sáng vào nơi tăm tối, giúp con thấy được giá trị chân thật của chánh pháp. Xin Thế Tôn nhận cho con được làm đệ tử của Thế Tôn, cũng như xưa kia Thế Tôn đã nhận cho phụ hoàng và mẫu hậu của con làm đệ tử của Ngài.

Đức Phật hoan hỉ chấp thuận. Từ đó, vua xa lánh hẳn đại đức Đề Bà Đạt Đa, và trở thành một vị đệ tử tại gia rất thuần thành của Phật. Cũng như vua Tần Bà Sa La thuở trước, gặp bất cứ một vấn đề khó khăn nào, vua xa cũng thỉnh thị tôn ý của Phật trước khi hành động. Sau khi Phật nhập niết bàn, chính nhà vua đã đứng ra bảo trợ cho đại hội kết tập kinh điển lần đầu tiên của năm trăm vị A la hán, dưới sự chủ tọa của tôn giả Đại Ca Diếp.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3062)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2734)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2046)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3071)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2674)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3590)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3398)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4238)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3761)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4296)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2375)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3542)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4235)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 4013)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2936)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3436)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3547)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4616)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3954)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4831)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4106)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3081)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3830)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3977)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3157)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3680)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4515)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3781)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2336)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2684)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3106)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2798)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4656)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 5000)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2892)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5409)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2917)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3358)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4449)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 5022)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4778)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3317)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4617)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4338)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6223)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3559)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4104)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6078)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5471)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4129)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33501)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3237)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4217)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4792)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3166)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3873)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3621)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6649)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2834)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3285)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant