Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú Thích của Dịch Giả

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9461)
Chú Thích của Dịch Giả

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

CHÚ THÍCH CỦA DỊCH GIẢ

LỜI MỞ ĐẦU

1. Pháp thân. Xem trang 30 của Giới Thiệu Mở Đầu.
2. Rahu là hành tinh thứ tám với vương miện của nó là “Ketu”, được xem là hành tinh thứ chín, theo chiêm tinh học truyền thống. Thần thoại học Ấn diễn tả Rahu là một sức mạnh ma quỷ thuộc về cõi trời, hình dáng khủng khiếp, với chín đầu. Đi qua không gian, Rahu nuốt mặt trờimặt trăng theo định kỳ, tạo ra nhật thực nguyệt thực. Rồi mặt trăng mặt trời tiếp tục di chuyển qua một chỗ mở trong cổ họng Rahu.
3. Năm Uẩn là năm hợp chất bị điều kiện hóa theo nhân quả của tất cả hiện hữu, nhất là con người. Thực thể cái ngã bề ngoài thực ra không gì hơn một tiến trình những hiện tượng, một đống những biến cố tâm lý thường trực lưu chuyển. Những tiến trình cấu thành này được sắp xếp thành năm cái : (1) hình dạng (sắc), (2) cảm nhận (thọ), (3) tri giác (tưởng), (4) những hiện tượng tâm thức (hành) và (5) ý thức (thức).
4. Tám thuộc tính hoàn thiện. Trong Phật giáo Tám Thuộc Tính Hoàn Thiện kể ra ở sau được cho là đặc biệt thuộc về cõi Phật Báo thân :
1. Thuộc tính biểu lộ hình tướng sai khác vô biên.
2. Thuộc tính truyền thông theo chủ ý với những người khác.
3. Thuộc tính trí huệ toàn thể.
4. Thuộc tính năng lực chuyển hóa thành hình tướng nào bất kỳ.
5. Thuộc tính tâm trùm khắp bao bọc tất cả các vũ trụ.
6. Thuộc tính tri giáctham dự vào những cảm giác của thân thể do bởi giác ngộ.
7. Thuộc tính đem lại sự thành tựu những mong muốn và nguyện vọng của tất cả chúng sanh.
8. Thuộc tính năng lực duy trì bất cứ sắc tướng nào trong thời gian dài.
5. Mười năng lực siêu việt (thập lực) :
1. Năng lực của tâm Phật, bao trùm toàn bộ lãnh vực hiểu biết và trực tiếp tri giác bản tánh nội tại của những quy luật vũ trụ, đặc biệt khi chúng áp dụng vào đời sống của chúng sanh. Tâm Phật thấy với sự xác quyết tuyệt đối rằng hạnh phúc chỉ sanh ra từ những tư tưởnghành vi thiện không bao giờ bởi những cái xấu ác, trong khi khổ đau chỉ sanh ra từ những tư tưởnghành vi xấu ác và không bao giờ bởi những cái thiện.
2. Năng lực tri nhận một cách rạch ròi mọi kết quả tương lai của những loại nghiệp khác nhau. Cũng thế, năng lực thấy hậu quả của những lực tương tác ở mức độ vũ trụ.
3. Năng lực tri nhận tiềm năng cho giải thoát trong mỗi chúng sanh, chúng tạo thành bản chất nội tại của mười tám yếu tố tâm lý (sáu căn, sáu trần, sáu thức). Xem Con Mắt Trí Huệ của Dalai Lama XIV.
4. Năng lực tri nhận bản chất và cấp độ của nguyện vọng bên trong mỗi cá nhân.
5. Năng lực tri nhận sự nhạy cảm về trí năng của mỗi cá nhân.
6. Năng lực biết và tri giác mọi con đường khác nhau dẫn đến những cõi cao của đời sống, sự giải thoátgiác ngộ hoàn toàn.
7. Năng lực hiểu vô số hình thức của sự tham thiền trên nhiều giai đoạn của giác ngộ.
8. Năng lực tri nhận tất cả nghiệp quá khứ của mỗi cá nhân.
9. Năng lực tri nhận giờ phút chính xác về cái chết của mỗi chúng sanhnăng lực chuyển di dòng tâm thức của chúng sanh đó đến những đời kế tiếp.
10. Năng lực tri giác thấy mọi phương pháp khác nhau để chấm dứt dòng sanh tử hay chuyển hóa những nhiễm ô của tâm thức và thấy nhiều loại kết quả mà những phương pháp ấy tạo ra.
6. Dakini. Xem trang 36 của Giới Thiệu Mở Đầu.
7. Yidam. Xem trang 35 của Giới Thiệu Mở Đầu.
8. “Những người hỗ trợ đã thức tỉnh” là những dakini.
9. Kim Cương thừa. Xem trang 32 của Giới Thiệu Mở Đầu.
10. Bốn loại Tantra. Toàn bộ những bản văn bao gồm những giáo lý của Kim Cương thừa, được chia làm bốn phạm trù theo bản chất của thực hành thiền định và sự tiếp cận thuộc tâm lý phù hợp với mức độ tiềm năng của cá nhân. Bốn cái là :
1. Jagyu, dòng hoạt động (Kriya Tantra).
2. Chogyu, dòng hoạt độngthiền định (Charya Tantra).
3. Naljorgyu, dòng thanh tịnh bên trong (Yoga Tantra).
4. Naljor Lamagkigyu, dòng thanh tịnh bên trong tối thượng (Anuttrayoga Tantra).
11. Tám Phản Ứng Thế Gian là những phản ứng phiền não khởi từ tâm chấp ngã. Tám phản ứng được hợp thành hai nhóm, tích cựctiêu cực. Bốn phản ứng tích cực là : thích thú với hài lòng, khen, được, và lời ngon ngọt ; bốn phản ứng tiêu cực : bị quấy nhiễu bởi không hài lòng, chê, mất và lời khó chịu.
12. Bồ tát. Ám chỉ Bồ đề tâm. Từ Bồ tát được dùng trong hai cách chính, theo hai cấp độ : con đường của Bồ tátbản thân sự Chứng Ngộ Tối Hậu. Một Bồ tát là người nỗ lực làm phát sanh trong chính mình lòng đại bi cho chúng sanhnỗ lực đạt đến trí huệ siêu việt để cho người ấy có thể vừa làm việc cho sự giải thoát của tất cả chúng sanh vừa hoàn thành giác ngộ trọn vẹn cho chính mình. Như thế một Bồ tát là một người đã hoàn thành giác ngộ thực sự nhưng đã chọn làm việc cho chúng sanh qua chuỗi tái sanh không dứt, hoặc là một cá nhân bình thường đã nhận Bồ tát giới và nhờ đó đã quyết định tìm kiếm sự giác ngộ cho chính mình vì lợi lạc cho chúng sanh.
13. Những daka và dakini và hai mươi bốn trung tâm năng lực của thân như kim cương của ngài. Có ba hạng dakini trong truyền thống Kim Cương thừa. Những dakini hạng thứ nhất, cũng được diễn tả là “dakini giác ngộ tự phát”, như là những yidam như Vajrayogini, Tara... sanh khởi từ năng lực của sự khai mở của Báo thân. Hạng thứ hai là những dakini vô hình được diễn tả là “những người sanh trong những cõi Trời”. Một số trong họ là những lưu xuất của những dakini hạng thứ nhất và những vị khác là người đã đạt đến mức độ này qua sự chứng đắc của họ. Theo nghĩa biểu hiện của truyền thống, họ tác động từ những cõi trời vô hình bao gồm hai mươi bốn nơi chốn thiêng liêngẤn ĐộTây Tạng. Tuy nhiên theo nghĩa hiện thực, những dakini tượng trưng bản tánh tối hậu của mọi lực lượng tâm sinh lý trong mỗi người và trong bản thân người đó có “hai mươi bốn cõi” tương đương.
Hạng thứ ba gồm những người sanh từ “sự chứng ngộ thần chú”. Họ ở giữa loài người, hoặc là những dakini tiềm thể hoặc là những người đã đạt đến những cấp độ của chứng ngộ bên trong qua sự hiểu biết bẩm sanh hay qua những giai đoạn của con đường Kim Cương thừa.
Nhân đây, những hình tướng khác nhau của những yidam trong cả hai phái giống được diễn tả trong hệ thống tranh tượng bí truyền chỉ là những biểu thị năng lực chuyển hóa của Báo thân. Sự khác biệt của những hình tướng và sự phân biệt giống phái (dễ làm bối rối) không thể và không phải được nhìn như những thực tại khách quan vì chúng chỉ là một phương cách tâm lý để truyền thông chân lý vĩ đại của tính tương đối duyên sanh cùng với tính bất nhị nội tại và tánh không của nó.
Thân như kim cương ám chỉ giáo lý Kim Cương thừa rằng tiềm ẩn trong thân tâm con người là những tiềm năng vĩ đại của sự thanh tịnhthực tại vốn sẵn đủ. Kim Cương thừa xem năm uẩn của con người là năm bộ Phật và xem năm đại – đất, nước, gió lửa, không khí-năng lực, và không gian – là năm Phật nữ tính. Năm nhiễm ô được chuyển hóa thành Năm Trí Huệ Siêu Việt qua tiến trình thiền định. Một thiền giả như Milarepa có thể và hoàn thành giác ngộ bằng cách khai thác những tiềm năng ẩn kín trong thân tâm con người.
14. Heruka. Theo ngữ nguyên học, he nghĩa là tánh không nội tại của mọi nguyên nhân, ru là tánh không nội tại của mọi kết quả, và ka nghĩa là tánh không nằm trong bản tánh sâu nhất của mọi sự. Như thế, Heruka đồng nhất với bản tánh tối hậu của thực tại. Heruka cũng được dùng như danh hiệu cho những yidam trong hình dạng khủng khiếp.
Tuy nhiênđịnh danh khác về yidam hung nộ – “người uống máu” – phát sanh từ danh từ Sanskrit “Rudhika”. Bởi thế, Heruka là người giết bốn loại ma bằng cách uống máu chúng.
Trong phương pháp mật truyền, vị lama của cá nhân mình được xem là hiện thân của Heruka.
15. Tám bộ thiên long quỷ thần. Ám chỉ tám bộ những lực lượng siêu nhiên. Nhất là nó ám chỉ tám thủ lĩnh thống lĩnh tám đạo quân thiên, thiên nữ, yama (dạ ma), yaksa (dạ xoa), raksa (la sát), tsan, rồng và gyalpo.
16. Phương diện Ba Thân của tâm. Ám chỉ đặc tính tâm thức con người là một hệ thống toàn bộ. Tánh không nội tại của tâm hay dòng thức là Pháp thân ; sự sáng tỏ nội tại của tánh giác là Báo thân ; và những tri giác và những tư tưởng mở bày không chướng ngạiHóa thân.
17. Phật Vajradhara. Vajradhara là sự biểu lộ cao nhất của giác ngộ, sự đại diện thấy được của Pháp thân. Nghĩa đen của “Vajra” là kim cương, nhất là trong phương diện cứng chắc không thể bể nát của nó. Trong nghĩa cao hơn, Vajra để chỉ bản tánh nội tại của giác ngộ – sự hợp nhất bất khả hoại và bất khả phân của trí huệ siêu việt và lòng bi vô hạn, cũng như lạc tối thượngtánh không tối hậu.
sức mạnh vũ trụ tối cao khởi từ cõi giới Pháp thân, Vajradhara tượng trưng sức mạnh hợp nhất tối thượng và nguồn bi mở khắp. Trong Vajradhara mọi hình tướng Báo thân, mọi phẩm tính và công năng của chúng được thống nhất. Từ đó Vajradhara được diễn tả là sự thống nhiếp toàn khắp của mọi thuộc tính của giác ngộ.
18. Bốn Phương Diện của Giác Ngộ. Từ này để chỉ Ba Phương diện của Giác ngộ (Ba Thân Trikaya) cộng với Phương diện Tinh Túy (Svabhavekakaya). Phương diện Tinh Túy này là tính cách vốn có hay nền tảng của Pháp thân. Nó được định nghĩa đơn giản là cõi thanh tịnh của giác ngộ. Vốn không chất thể, nó cũng không dơ nhiễm và khiến cho sự loại trừ mọi nhiễm ô trí thức và tình cảm có thể được. Không gian thanh tịnh bên trong của giác ngộ và tánh giác tối hậu thường được gộp vào từ Pháp thân. Hai phương diện khác là sự biểu lộ cao nhất (Báo thân) và sự biểu lộ trần thế (Hóa thân).
19. Năm Trí Huệ Siêu Việt. Xem Chú thích 13 ở trên và Chú thích 2, Phần Một, Chương 3.

PHẦN MỘT, CHƯƠNG 1
1. Yogin trong tiếng Sanskrit và yogi trong tiếng Hindi (thiền giả).
2. Tilopa, Naropa và Marpa. Hai dòng chính của phái Kagyuš là Ringyu, “dòng dài” những vị thầy và Nyegyu, “dòng ngắn” những vị thầy (còn được gọi là dòng trực tiếp). Dòng sau truyền xuống từ đại sư Tilopa, ngài đã nhận lãnh sự trao truyền bí mật bằng miệng về những giáo lý mật truyền, đặc biệt là những cái về sau được biết với tên là Sáu Giáo Pháp của Naropa. (Xem Chú thích 6, Phần Hai, Chương 4.)
3. Ngonga và Ogmin : những tên Tịnh độ của Phật. Ngonga : Hoan Hỷ Toàn Hảo, cõi Phật của Akshobhaya (A Súc Bệ, Bậc Bất Động). Khi một thiền giả nhập môn quán tưởng Năm Cõi Phật trong thiền định, Ngonga được định vị ở phương Đông. Từ Ogmin nghĩa đen là “không trên”, tức là cõi Phật cao nhất của Báo thân. Đôi khi Ogmin như là một tĩnh từ trợ nghĩa cho danh từ Ngonga thành Ogmin Ngonga, Cõi Hoan Hỷ Tối Cao.
4. Nyingma. “Cổ Phái”, cũng gọi là “Cựu Dịch”, phát sinh từ thế kỷ thứ tám bởi Guru Padmasambhava và Vimalamitra, cả hai vị đều đến từ Ấn Độ. Đây là một trong bốn phái chính của Phật giáo Tây Tạng còn hiện diện cho đến ngày nay ở trong và ngoài Tây Tạng.
5. Mantra. Một thần chú là một chữ đơn hay một số chữ thiêng liêng. Trong thiền định mật thừa Phật giáo, những thần chú được quán tưởng trong hình thức phát sáng hay được hát theo nhiều cấp độ giọng. Tuy nhiên đôi khi, sự thực hành mang hình thức một sự chuyển hóa im lặng âm thanh thần chú thành sự hợp nhất với năng lực năng động của hơi thở.
Những bản văn mật thừa cùng với những nguyên lý và những thực hành của sự tự chuyển hóa vốn được các đại đạo sư giác ngộ ban truyền. Những thần chú có nhiều cấp độ ý nghĩa, chúng chỉ có thể được học từ một vị thầy có kinh nghiệm, và chỉ bằng cách theo thủ tục đã định sẵn của ngài.
6. “Papa Mila !” “Cha ơi, quả là một người ! Cha ơi, quả là một người !” Trong tiếng Tây Tạng, “mi” nghĩa là người và “la” là một từ tán thán cần thiết nhấn mạnh. Như thế là sự biểu lộ, Cha ơi, quả là một người ! (JB)
7. Hình thờ. Sự sử dụng những hình thờ phát xuất từ phong tục xưa của tôn giáo bản địa Tây Tạng gọi là Bošn, một hình thức thờ thiên nhiên. Những hình tạc đàn ông, đàn bà và thậm chí thú vật nuôi trong nhà được làm từ gỗ hay bột tráng bằng bơ màu để cúng trời, thần và những hồn linh để giải thoát những nạn nhân khỏi ảnh hưởng xấu của họ. Những nghi lễ được cử hành ở nhà hoặc bởi thầy cúng hay đôi khi bởi những vị tăng Phật giáo mật thừa. Xem Chú thích 4, Phần Hai, Chương 8.
8. Tsa : viết tắt của Kya Ngatsa.
9. Năm con Rồng Thủy. Năm 1052.

PHẦN MỘT, CHƯƠNG 2
1. Dzo : con vật lai giống giữa trâu yak và bò thường. (JB)
2. Chuba : Ống tay áo của áo chuba Tây Tạng, khi xếp vào lên quá khuỷu tay và có thể dùng như một cái roi quất.
3. Chúng tôi sẽ chạy đến khi nghe tiếng trống và khi khói bốc lên. Ám chỉ hoàn cảnh của những nghười nghèo khổ và ăn xin, nhất là khi những nhà có lễ tôn giáo với âm thanh của nhạc, như tiếng trống và khi khói bốc lên từ những ống khói lò bếp. Những dịp ấy chủ nhà sẽ phân phát thức ăn.
4. Thờ cúng tám con rồng : Tám Con Rồng là tám Thiên Long.

PHẦN MỘT, CHƯƠNG 3
1. Dza mặt màu hạt dẻ, một trong ba thần bảo vệ chánh của Phái Nyingma. Là Dza, ngài cũng được xem là một lực lượng cõi trời đồng hóa với hành tinh thứ tám, Rahu, và hành tinh thứ chín, Ketu. Dza là vua của những lực lượng ma quỷ trong tám đạo quân của các vị trời và quỷ thần. (Xem Chú thích 15, Lời Mở Đầu.)
2. Hum. Đây là một phần của loại thần chú đặc biệt gọi là drak-ngak, một thần chú làm kinh sợ. Chữ “Hum” thiêng liêng về tổng quát tượng trưng bản tánh, những thuộc tính và thần lực của Phật tâm. Chia thành năm phần, chữ này trong tiếng Sanskrit hay Tây Tạng tượng trưng Năm Trí Huệ Siêu việt của Phật tâm : (1) trí huệ về tánh không toàn khắp, (2) trí huệ như tấm gương (Đại viên cảnh trí), (3) trí huệ của lòng bi tự khởi, (4) trí huệ của sự phân biệt (Diệu quan sát trí) và (5) trí huệ của sự bình đẳng (Bình đẳng tánh trí).
3. Paht là chữ cuối của thần chú gây kinh hãi này. Một phù thủy thốt lên chữ này với những chữ khác khi ném một lời chú thuật lên kẻ thù. Ngược lại, một thiền giả, thốt lên thần chú này như một phần của tiến trình thiền định để giải tan những lực lượng đối nghịch bên trong ngăn chặn trên con đường giác ngộ. Trong thiền định mật truyền, chữ này được thốt lên hết cả sức mạnh để đem tâm trở lại sự chú ý.

PHẦN HAI, CHƯƠNG 1
1. Giáo lý Đại Toàn Thiện. Câu này ám chỉ giáo pháp Atiyoga, là hình thức cao nhất của giáo lý bí truyền trong truyền thống Tây Tạng.
Câu đầu toàn thiện ở gốc rễ nói đến tính cách thâm sâu nhất của con người, tánh giác bổn nguyên của nó. Tánh giác này không bị ô nhiễm bởi năng lực của cái ngã và ngay cả chư Phật cũng không thể làm biến chất nó. Tinh túy tối hậu là một hợp nhất không thể phân ly của sự tri nhận siêu việttánh không vốn sẵn của nó đến mức sự hợp nhất đó vượt khỏi nhị nguyên của sanh tửniết bàn, nhị nguyên này còn hiện hữu chừng nào con người còn bị sự mê lầm về cái ngã và về những hiện tượng cai trị.
Điều này dẫn đến câu toàn thiện ở chót đỉnh, nó bao hàm một quán chiếu cao hơn trong con đường nhờ một sự thức tỉnh tự nhiên. Trạng thái này được đem lại trước tiên nhờ sự quán đảnh truyền pháp nhập môn và rồi được nhen nhúm lại nhờ thiền định trong mọi cách thức tự chuyển hóa. Câu toàn thiện nơi quả của giác ngộ ám chỉ giác ngộ không phải là một đối tượng lìa khỏi tánh tỉnh giác nguyên sơ của con người. Thiền định về nó ban ngày thì thành Phật trong một ngày... Chỉ rằng cái giác ngộ này là vốn sẵn, bẩm sinh trong sự tỉnh giác vào mỗi khoảnh khắc của dòng hiện sinh của người ta và rằng người sơ học chỉ việc tự mở mình ra với chân lý này.
2. Ngọn cờ chiến thắng, là một trong tám biểu trưng tốt lành. Hình tượng truyền thống này được dương lên trên đỉnh các chùa Phật giáo, những tu viện và nhà riêng có trọn bộ Đại tạng.
3. Rinpoche là một từ tôn kính, nghĩa đen là “Bậc Quý Báu” dùng để chỉ những vị lama. Từ này cũng nối kết với biểu tượng truyền thống Viên Ngọc Như Ý. Khi cầu nguyện vị lama bổn sư của mình, một đệ tử có thể nói đến ngài như “vị lama của con, ngài là Viên Ngọc Như Ý.”

PHẦN HAI, CHƯƠNG 2
1. Yidam Chakrasamvara. Chakrasamvasra là một bổn tôn yidam đặc biệt thuộc về tantra Mẹ. Lý thuyếtthực hành của sự tự chuyển hóa nối kết với yidam này chủ yếu về sự phát triển của trí huệ siêu việt và về sự chứng ngộ tánh giác nguyên sơ, được diễn tả như tánh không của sự sáng tỏ quang minh. Tuy nhiên, nó không loại trừ phương pháp đạt đến hình tướng Báo thân, cái này là thực hành chính của Guhyasamaja. (Xem Chú thích 2, ở dưới.)
2. Guhyasamaja. Một yidam, của Anuttara Tantra. Guhyasamaja là sự biểu lộ của Pháp thân thống nhất trong nó những thuộc tính của tất cả chư Phật. Lý thuyếtthực hành của sự tự chuyển hóa nối kết với yidam này chủ yếu về sự phát triển lòng bi vô biên như là một sức mạnh động lực và về những chuyển hóa thiện xảo khéo léo những hợp uẩn tâm sinh lý, và đặc biệt những năng lực dấu kín của chúng, thành hình tướng Báo thân. Yidam này thuộc về tantra Cha. Có những hình thức khác nhau của Guhyasamaja.
3. Dorje Pahgmo. Vajravarahi trong tiếng Sanskrit. Tên của một dakini và một hình thức thực hành thiền định.
4. Hevajra. Một yidam theo Anuttara Tantra. Giáo lý của dòng thực hành này thuộc về truyền thống Bất Nhị (nghĩa là không thuộc riêng tantra Cha hay tantra Mẹ). Nó phối hợp những yếu tố của cả hai tantra Cha và tantra Mẹ. Trong một nghĩa thực hành điều đó có nghĩa là phối hợp hai thực hành chính yếu, tức là sự chuyển hóa thân thể phàm trần thành cấp độ Báo thân và sự chứng ngộ tánh không bẩm sinh của tánh giác.
5. Tám Ngàn Bài Kệ. Astasahasrika Prajnaparamita.
6. Taktugnu. Một Bồ tát trải qua nhiều thử thách không thể nghĩ bàn để tìm cầu Pháp. Có một tiểu sử Taktugnu trong tiếng Tây Tạng.
7. Hai Phần. Ám chỉ những bộ phận chính của Hevajra Tantra.
8. Mudra. Ấn là những cử chỉ tượng trưng của bàn tay hay tư thế thân thể là một phần của thực hành mật truyền.
9. Maitrepa, là một vị thầy Phật giáo Ấn Độ. Marpa đã nhận giáo lý mật truyền về Đại Ấn từ ngài khi du hành qua Ấn Độ. Marpa trao truyền giáo lý này cho Milarepa, Mila lại trao truyền cho Gampopa, Retchungpa... cho đến những vị thầy của ngày nay.

PHẦN HAI, CHƯƠNG 3
1. Chén rượu bằng sọ người. Kapala trong tiếng Sanskrit. Chén rượu làm bằng chỏm của một cái sọ người.
2. Mạn đà la Chakrasamvara. Mạn đà la tượng trưng “cung điện-chùa” là chỗ nhóm hội của sáu mươi hai thần do Chakra-samvara và dakini phối ngẫu Vajravarahi làm chủ. Cung điện-chùa và những vị trú ngụ cũng tượng trưng cho thực tại tối cao, trong đó Pháp thân của Phật có thể phóng chiếu ra ngoài và Lama Marpa cũng phô bày thực tại đó qua hành động của Tâm Giác Ngộ khi quán đảnh cho Milarepa.
3. Ba mươi hai nơi chốn linh thánh và tám nơi hỏa thiêu vĩ đại. Tám chỗ hỏa táng hay nghĩa địa lớn, được đề cập trong nhiều bản văn mật thừa quan trọng được tin là nằm trong nhiều miền của bán lục địa Ấn Độ. Chúng đã được nhiều hành giả và thiền giả chọn và sùng bái như những nơi để thực hành những chuyển hóa nhận thức về những hoàn cảnh ghê gớm. Trong truyền thống Tây Tạng “hai mươi bốn nơi linh thánh” và “tám nơi hỏa thiêu vĩ đại” đôi khi để ám chỉ “ba mươi hai nơi linh thánh”. Có nói rằng đó là những nơi được ban phước bởi đức Phật với những hóa hiện của Ngài trong hình tướng Chakrasamvara và hội những hóa thần bổn tôn. Ngày nay những nơi ấy được xem là những cõi vô hình của các daka và dakini, những vị nâng đỡ cho sự thực hành của những người đã nhập môn. Mật thừa Phật giáo xem những phần đặc biệt của thân thể con người là phần tiểu vũ trụ tương đương với ba mươi hai nơi linh thánh.
4. Ta đã đi gặp con trong giả trang làm một người cày ruộng. Marpa đã thực hiện một hành động kính trọng mà không biểu lộ ra như thế. Mọi hành động kỳ lạ của Marpa như vậy có một ý nghĩa dấu kín nhưng rất giản dị. Người ta càng đi xa bao nhiêu để gặp một người khách, thì sự tôn trọng càng lớn lao.
5. Lửa Tummo. Danh từ “Tummo” nghĩa là “người (nữ) làm những lực lượng chấp ngã phải kinh hãi”. “Tum” là hành động anh hùng như là một phương tiện thiện xảo, trong khi “mo” để chỉ trí huệ tối thượng. Lửa ẩn kín Tummo khởi lên trong Tsa-u-ma (trung tâm thần kinh ở chính giữa) và trong những mạng lưới trong xương sống và làm cho những năng lực hoạt động của hai kinh mạch của hệ thống thần kinh trung ương được chuyển đúng trong kinh. Bấy giờ “lửa” này được dùng cho sự chế ngự và khai thác năng lực sáng tạo. Tiến trình này bảo đảm cho sự tịnh hóa những yếu tố vật lýtâm lý được thành tựu đồng thời với cảm giác về lạc tối thượng được sản sanh. Dù tự thân lửa không phải là đối tượng thật sự cho nguồn cầu đạo, tuy nhiên nó được dùng như là một phương tiện để hoàn thành một sự tự chuyển hóa toàn triệt một cách hiệu quả nhất. Hành giả đem tri giác về thực tại trong khi thiền định đến việc trải qua kinh nghiệm phi thường này. Một tri giác sanh từ trí huệ như thế thấy trong cái lạc tối thượng này tánh không của bản ngã và của mọi hiện tượng và nhờ đó hiểu được sự hợp nhất của lạc và không.

PHẦN HAI, CHƯƠNG 4
1. Sáu mươi giọng Phạm Thiên. Sáu mươi phẩm tính, phương diện và âm điệu của giọng nói đức Phật. Trong đó có năng lực độc nhất của giọng nói hay ngôn ngữ của Phật có khả năng truyền thông đến mỗi cá thể theo cách mà cá thể đó hiểu rõ nhất.
2. Tám mươi bốn ngàn phương diện. Kinh điển Phật giáo nói đến tám muơi bốn ngàn phương diện mê lầmô nhiễm của tâm thức và bởi thế có tám mươi bốn ngàn phương thuốc chữa của Pháp. Con số này nói lên tầm lớn rộng và sai khác của tâm thức con người. Tám vạn bốn ngàn phương diện chia ra làm bốn phạm trù. Mọi nhiễm ô của tâm thức gồm bốn nhóm : (1) mê lầm, (2) tham, (3) sân và (4) sự hỗn hợp của ba phiền não này. Tương tự, có bốn loại phương thuốc của Pháp là những giáo lý. Loại thứ nhất nói về cách tri giác thực tại được chỉ ra trong abi dharma (a tỳ đàm) và bát nhã ba la mật ; loại thứ hai, giới luật trong Luật tạng ; thứ ba, sự làm bình lặng tính nhị nguyên của tâm thứcđánh thức phần cao hơn của tâm thức trong Kinh. Và thứ tư là sự nhanh chóng đạt được sự tự chuyển hóa trong Tantra.
3. Bồ đề tâm. Nguyên lý trung tâm của Đại thừa. Đó là Tâm Giác Ngộ, một quan tâm toàn diện và vô điều kiện đối với sự giải thoát của chúng sanh khỏi sự trói buộc của vòng sanh tử. Mỗi người theo Pháp cần phát triển không chỉ lòng đại bi cho tất cả chúng sanh, mà cũng phải thành tựu một thức tỉnh trọn vẹn với cấp độ tối hậu của Bồ đề tâm. chỉ lúc bấy giờ người ta mới hoàn thành giác ngộ qua hành động vô ngã của lòng bi và trí huệ tối thượng.
4. Bốn phương diện của quán đảnh. Bốn giai đoạn quán đảnh truyền pháp theo Kim Cương thừa là như sau :
1. Quán đảnh “cái bình” là sự truyền pháp qua sự biểu lộ của một hóa thần bổn tôn, việc này chuẩn bị cho người nhập môn sự chuyển hóa bên trong của những hình tướng tri giác.
2. Quán đảnh “sự hợp nhất được che giấu” là sự truyền pháp qua ngữ của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn bị cho người nhập môn sự chuyển hóa những năng lực của thân, ngữ và âm thanh.
3. Quán đảnh “trí huệ tối thượng” là sự truyền pháp qua tâm giác ngộ của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn bị cho người nhập môn sự chuyển hóa thức.
4. Quán đảnh “đồng hóa không thể nghĩ bàn” là sự truyền pháp qua bản tánh tối hậu của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn bị cho người nhập môn sự Giác Ngộ Viên Mãn.
Để rõ thêm về nghĩa che giấu, xem Chú thích 11 dưới đây.
5. Đại Ấn (Mahamudra). Ám chỉ một trạng thái thức tỉnh (được diễn tả như là “tánh giác nguyên sơ”) bao gồm cái nhất thể mở bày toàn khắp của lạc tối thượngtánh không vô sanh của nó, nghĩa là kinh nghiệm giác ngộthành tựu. Thiền định Đại Ấn là một phương tiện để thực hiện cái ấy một cách trực tiếp. Đại Ấn được định danh như vậy bởi vì mỗi người nhập môn đã thoáng thấy một trạng thái “tánh giác” trong khi quán đảnh, và họ tiếp tục “dán cái đại ấn” ấy của sự quán thấy thấu suốt của họ vào mọi tri giác của họ về thực tại. Phái Kagyuš nói đến hai truyền thống Đại Ấn, một theo Kinh và một theo Tantra.
Những trường phái khác nhau của Phật giáo Tây Tạng đem lại những quan điểm khác nhau về giáo lý và đường lối thiền định liên hệ với Đại Ấn.
6. Sáu Giáo Pháp Mật Truyền : Ám chỉ đến những phương diện trọng yếu của Yoga mật thừa Phật giáo. Đôi khi được biết như là sáu giáo pháp của Naropa :
1. Yoga xử lý với Lửa tối thượng Tummo
2. Yoga của thân vi tế
3. Yoga của giấc mộng
4. Yoga của tánh giác quang minh
5. Yoga của sự chuyển di dòng tâm thức
6. Yoga của trạng thái trung ấm Bardo
7. Chuyển di Tâm thức vào Xác chết. Sự thực hành này của sự chuyển di dòng tâm thức vào một người vừa mới chết hay con vật mới chết thì khác biệt với sự chuyển di vào một cõi đã chọn vào lúc chết. Marpa đã đem giáo lý trước vào Tây Tạng và truyền cho Milarepa và người con trai của mình, Darma Doday. Darma Doday đã chuyển di dòng tâm thức của mình vào thân một con chim vào lúc ông chết trong một tai nạn. Theo những dạy bảo của Marpa, con chim bay đến Ấn Độ, ở đó Doday chuyển vào xác chết của một người Bà la môn trẻ, người về sau trở thành một vị thầy được biết với tên là Bồ Câu Của Cây Huyền Bí.
8. Garuda (Kim Xí Điểu) Theo thần thoại cổ, Garuda là một chúng sanh cõi trời cư ngụ nơi cây như ý trong cõi trời thứ ba mươi ba. Nó là một lực lượng chống lại những rồng trời (long) ở dưới đáy biển. Trong truyền thống mật thừa Phật giáo có những yidam Garuda thuộc về năm bộ Phật.
9. Quán đảnh Anatmata. Ám chỉ Anatmata, dakini phối ngẫu của Chakrasamvara.
10. Sự Thanh Tịnh của Tánh Giác : Một trong sáu giáo pháp mật truyền, đồng nghĩa với Sự Sáng Tỏ Quang Minh của Tánh Giác. Xem Chú thích 6 ở trên.
11. Sáu cách và bốn phương pháp. Bốn phương pháp giải thoát và sáu cách soi sáng giáo pháp mật thừa Phật giáo. Bốn phương pháp là : (1) nghĩa đen, gồm nghĩa tượng trưngmật chú ; (2) nghĩa tổng quát ; (3) nghĩa che giấu (những sự nói bóng gió đến một vài giải thích trọng yếu bị bỏ đi) ; (4) nghĩa tối hậu. Sáu cách là : (1) và (2) những giáo lý được ban với ý định che giấu hay không ; (3) và (4) những giáo lý có những nghĩa bề ngoài hay tối hậu ; (5) và (6) những giáo lý có những nghĩa đen theo ngữ nguyên và những giáo lý có một nghĩa khác với nghĩa đen.
12. Những viên thuốc “tiên”. Nguồn gốc của những viên thuốc này là những đạo sư giác ngộ Ấn và Tạng cổ thời có thần lực và cách luyện đan bí truyền khiến các ngài có thể chuyển hóa năm loại thịt và năm loại chất lỏng thành thuốc cho những người nhập môn. Thời nay, những viên thuốc được làm từ những loại cây cỏ khác nhau và những chiết xuất từ những viên thuốc cổ xưa còn lại. Rồi chúng được gia bị bằng sự thiền định của những lama. Một sọ người, thật hay làm giả, được dùng để chứa. Sọ người là biểu trưng của tánh giác cao nhất bao gồm lạc và tánh không của tánh giác. Một thiền giả thực hành sự chuyển hóa trọn vẹn những giác quan thành năm phương diện của tánh giác sáng tỏ, tức là giác ngộ, điều này là sự dung nhập trọn vẹn của quán thấy thấu suốt của trí huệcảm giác về lạc tối thượng.
13. Năm Bộ Phật : Năm biểu lộ của Báo thân : Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), Ratnasambara (Bảo Sanh), Amitabha (A Di Đà), Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu) và Vairochana (Tỳ Lô Giá Na). Mỗi vị Phật này hiện thân những phương diện đặc biệt của tánh giác đã giác ngộ (hay trí huệ giác ngộ) : trí huệ như tấm gương, trí huệ của sự bình đẳng, trí huệ phân biệt, trí huệ của sự thành tựu hành động một cách tự nhiên, và trí huệ tánh không toàn khắp.
14. Damaru và kapala : Damaru là một cái trống đôi làm bằng hai đỉnh sọ đâu vào nhau. Kapala là một cái sọ đựng rượu, đôi khi thiên nhiên, đôi khi làm bằng chất liệu quý.

PHẦN HAI, CHƯƠNG 5
1. Lâu Đài Châu Ngọc. Ám chỉ kinh Maharatnakuta, một kinh Đại thừa. Maharatnakuta gồm sáu trong 104 bộ kinh được sưu tập thành đại Tạng Kangyur.
2. Ma. Có bốn loại khác nhau : (1) như là mê lầm bên trong, (2) như là năm uẩn nhốt tù con người trong vòng quay của sanh tử, (3) như năng lực không thể đánh bại của cái chết, (4) như ma quỷ cả ở trong lẫn ở ngoài – như Vua Garab Ouangduk của cõi Trời Làm Mê Lầm, và như năng lực của chấp ngã, cả hai loại ma này tìm cách quyến rũ người ta vào những hành động tai hại và lôi kéo nó ra khỏi những theo đuổi thực sự lợi lạc.
3. Om, Ah, Hum. Om tượng trưng sự biểu lộ của giác ngộ. Ah tượng trưng ngữ của giác ngộ. Hum tượng trưng hiểu biết tối thượng.
4. Núi Tisi. Núi Kailas. Đối với người Tây Tạng đây là chỗ ở thiêng liêng của Yidam Chakrasmvara và nhiều vị A La Hán bất tử, trong khi đối với người Ấn Độ đó là cõi của Shiva và phối ngẫu là Uma.
5. Cõi của những Dakini. Ngoài nghĩa bề ngoài, nghĩa thật là trạng thái tối thượng của Pháp thân.
6. Những dakini của ba giai đoạn của con đường. Những vị này ở trong ba cõi, tức là không gian, mặt đất và dưới mặt đất. Những daka và dakini, hoặc vô hình hay là người, đã hoàn thành sự chuyển hóa ban đầu, cao hơn hay đã giác ngộ.
7. Mười hai thiên nữ. Mười hai dakini vô hình đã được Guru Padmasambhava hàng phục ở Palmo Palthang xứ Porong, miền tây Tây Tạng, và được ngài chỉ định bảo vệ những người nhập môn tu học và những thiền giả của dòng Kim Cương thừa.
8. Dusolma. Một thiên nữ có hình dạng hung nộ mà Marpa xem là vị bảo hộ của truyền thống Kagyuš.
9. Thầy đến trong chỉ ba ngày. Trong ba ngày, Milarepa đã làm một cuộc hành trình mà nếu bằng phương tiện tự nhiên người ta phải mất hàng tháng.

PHẦN HAI, CHƯƠNG 6
1. Xương của mẹ thầy. Xương được tán và trộn với đất sét để làm thành những tượng nhỏ hay tháp nhỏ.

PHẦN HAI, CHƯƠNG 7
1. Tsayi Koron. Một tên khác của nơi sanh Milarepa, Kya Ngatsa.
2. Dây thiền định. Là một sợi dây để ngồi thiền được làm từ vải hay len. Thiền giả mang nó từ vai bên trái vòng qua ngực và xuống một hay hai đầu gối.
3. Nguồn thức. Ám chỉ cái được xem là nguồn của tất cả thức (Alaya-vijnana tiếng Sanskrit). Phái Duy tâm thức của Phật giáo Ấn Độ đề nghị lý thuyết rằng mọi tiến trình tư tưởng phát sinh từ và tự tan vào trong nguồn thức. Toàn thể thế giới hiện tượng chỉ là một sản phẩm của tâm thức, “thực tại khách quan” là một ảo tưởng của tâm thức. Cũng chính tâm thức này tạo ra một cái ta “có thực” từ tưởng tượng thuần túy. Khi từ chối một sự nhị nguyên như vậy, phái này xác nhận thực tại chủ thể của nguồn thức – được định nghĩa như thuần chỉ trong suốttỉnh giác. Nó được xem là hoàn toàn trung tính, trong nghĩa là một nền tảng hay căn cứ. Trong truyền thống mật truyền, nguồn thức là trí huệ như tấm gương, nó được chứng ngộ khi những mê lầm của tâm thức đã được trừ sạch. Tâm thức bình thường bị những tư tưởng nhiễm ô khống chế, chúng có thể được so sánh với sự dơ bẩn làm dơ nhiễm nguồn thức. Qua tiến trình chuyển hóa, sự nhiễm ô của những tư tưởng bị xóa tan và bản tánh của tánh giác thanh tịnh bấy giờ được thấu hiểu như là giác ngộ.
4. Cái nồi màu lục : Vật thiêng liêng này hiện còn và được giữ gìn ở Tsahilhunpo.
5. Con sẽ trộn cái gì với nước ? Thêm bột lúa mì vào nước là một tục lệ của người Tây Tạng.
6. Kali Yuga (Thời đen tối). Ám chỉ chu kỳ thứ tư và cuối cùng của thời gian của vũ trụ của chúng ta. Ba chu kỳ đầu là Satya Yuga (hoàn thành hạnh phúc), Treta Yuga (hạnh phúc ba phần) và Dwapara Yuga (hạnh phúc hai phần). Thời đại Kali Yuga được đánh dấu bởi (1) ngụy biện trí thức nơi lãnh vực của sự chứng đắc tâm linh, (2) sự suy đồi về phẩm chất của đời sống, (3) sự đe dọa tăng lên đối với một cuộc đời ngắn ngủi, (4) những quan niệm sai lầm và sự bất tịnh của tâm trí, và (5) sự lan tràn của bạo lực và xung đột.

PHẦN HAI, CHƯƠNG 8
1. Thiên nữ Tseringma. Một trong năm thiên nữ chị em, họ đã trở thành những đệ tử của Milarepa và sau này là những hộ pháp cho dòng phái của ngài.
2. Sáu Cách Thức Giác về Lama của Mình. Bài ca của Milarepa trong đó ngài kê ra sự tưởng nhớ sáu phần về lama của ngài. (Bài ca này có ghi lại trong “Một Trăm Ngàn Bài Ca” Xem bản dịch tiếng Anh của Garma Chang.)
3. Thiên nữ Tara là một trong những yidam. Có nhiều hình tướng, ngài được xem là hiện thân của lòng bi mở khắp của tất cả chư Phật.
4. Bošn là tôn giáo cổ của Tây Tạng trước Phật giáo. Tôn giáo Bošn nguyên thủy là một hình thức thờ phụng thiên nhiên. Nó dạy niềm tin vào những lực lượng siêu nhiên, gồm đấng sáng tạo tối thượng, bạn đạo giữa cộng đồng con người và sống hòa điệu với thiên nhiên xung quanh. Tôn giáo Bošn ngày nay là một hệ thống phát triển cao những lý thuyết siêu hình học và những kỹ thuật thiền định.
5. Chidroš Thigtsakma. Bài ca của Milarepa với tiêu đề này nói về sự thực hành Pháp để cho người ta có thể đối mặt với cái chết không thể tránh của mình với hoan hỷ lớn lao. Từ Chidroš nghĩa là niềm vui khi chết ; Thigtsakma, giống như sự sửa lại đúng thời một tấm trần hư dột.

PHẦN HAI, CHƯƠNG 9
1. Geshe. Một danh hiệu dành cho những lama hay nhà sư đã thành công trải qua những kỳ thi trong hình thức tranh luận công khai về những chủ đề trong kinh điển Phật giáo về siêu hình học và luận lý.
2. Năm đối tượng của niềm vui giác quan : Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
3. Năm cấp độ của cái nhìn thấy. Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, Pháp nhãnPhật nhãn.
4. Năng lực Bốn phần của Hành động. Một “thần bảo vệ quyền năng”, một bồ tát đã thành tựu năng lực phi thường, tự nhận công việc làm cho hoàn thành những mục tiêu khác nhau của chính ngài và của những người khác qua Bốn Hành Động :
1. Hành Động Làm Bình Lặng : tịnh hóa tâm thức, loại trừ khổ đau và chữa lành những bệnh tật.
2. Hành Động Hoàn Thành Dần Dần : những thực hành để mở rộng những khả năng của trí năng, tăng trưởng hạnh phúc, kéo dài tuổi thọ và v.v...
3. Hành Động Cảm Ứng những người Cầu Đạo : ám chỉ sự thu hút tất cả những vũ trụchúng sanh đến với mình và đặt họ vào ảnh hưởng tâm linh của mình, hay để làm tăng sự phụng sự tâm linh của mình cho lợi lạc của họ.
4. Hành Động Hung Nộ : ám chỉ sự nắm lấy năng lực tiêu cực để loại trừ mọi ảnh hưởng đối nghịch và để bảo vệ nhân loại khỏi sự hoành hành, cai trị của những thế lực nghịch với đạo pháp.
5. Shonnu (Kumara) Điều này ám chỉ một sự ví von của Milarepa về giờ phút chết là không thể tránh và không thể đảo ngược. Dù đức Phật cũng đã bị bệnh nặng và cho phép y sĩ Shonnu bắt mạch xem bệnh ngài.
6. Đại Ấn của tánh Không. Tánh Không được xem là Đại Ấn, như là bản tánh tối hậu của thực tại, khiến một tâm thức đã thức tỉnh tri giác dấu in không thể tẩy xóa của tánh Không trên tất cả mọi sự vật, có điều kiện hay không bị điều kiện hóa, (hữu vi hay vô vi). (Cũng xem Chú thích 5, Phần Hai, Chương 4.)
7. Chòm sao thứ chín âm lịch. Một chùm sao mà tính chấtvững chắcviên mãn. Như thế ngày đó đánh dấu sự đại viên mãn của Milarepa, sự đi vào tánh Không của Pháp thân.
8. Năm bộ dakini. Chúng hội những dakini đại diện năm tính chất tâm linh hay những thuộc tính tâm lý vừa cả trong bản tánh siêu việt vừa trong sự biểu lộ thân xác của họ. Năm hình thức dakini giống như năm bộ Phật và năm phương diện của trí huệ siêu việt.
9. Ram. Chữ, âm thiêng liêng này tượng trưng Nguồn của Yếu tố Lửa trong bản tánh tối hậu của tánh Không bẩm sinh nội tại trong lửa.
10. Sunyata. Một từ có nghĩa tánh Không, phân biệt với không có gì. Những trường phái Phật giáo nhận thức Sunyata là tánh không nội tại của ngã hoặc của pháp, hay tánh không của cả ngã và pháp. Cái sau là quan niệm của Trung Đạo về thực tại như là tánh không toàn diện, không có bất kỳ thực thể nào dù xuống đến tận nguyên tử cực vi. Tuy nhiên một tánh không như thế cũng được hiểu là nguồn của mọi nhân và quả có thể được trong thế giới vật chất hay thế giới tâm thức. Sự tương thuộc duyên sanh của những nguyên nhân và kết quả thuộc hiệân tượng là đồng nghĩa với tánh không nội tại của mọi sự.
11. Bardo. Trạng thái của chu kỳ đời sống giữa đời hiện tại và đời tương lai. Những biến cố của Bardo bắt đầu từ giai đoạn chót của cái chết khi sự tan rã của những nguyên tốnăng lượng trong các uẩn tâm sinh lý xảy ra. Truyền thống Tây Tạng xem sự thấu hiểu về cái chết và Bardo là một yếu tố cần thiết trong sự chuyển hóa những kinh nghiệm sống của con người.
12. Tám biểu hiện tốt lành. (1) Một cái lọng, (2) một cặp cá bằng vàng, (3) một vỏ tù và xoáy về bên phải, (4) một cái nút không có chỗ chấm dứt, (5) lá phướn của sự tuyệt hảo tối thượng, (6) Bánh Xe Pháp, (7) bình kho tàng vĩ đại, 
(8) hoa sen.
13. Bảy biểu hiện vương giả. Hoàng hậu quý báu, thừa tướng, chiến sĩ, ngọc như ý, bánh xe, voi và ngựa. Chúng tượng trưng Bảy Ngọc Báu của những Bậc Giác Ngộ. (Xem Chú thích 1, Kết Từ, ở dưới.)
14. Chữ Vạn. Là một biểu tượng Phật giáo của chân lývĩnh cửu. Danh từ này nghĩa đen là “cái vĩnh cửu”.
15. Những chủng tử tự của thần chú. Ám chỉ “thần chú gốc” (Tsa-ngak). Đó là thần chú căn bản nối kết với mỗi yidam. Thần chú gốc được gọi như vậy bởi vì một vài chữ đơn giản có thể phơi bày một giáo lý bao la và đa dạng về sự chuyển hóa trọn vẹn những điều kiện bẩm sinh của con người.
16. Một Ngàn Lẻ Hai Vị Phật. Ám chỉ đến một ngàn vị Phật của kiếp này.
17. Một mạn đà la của những dakini. Ở đây nghĩa là một chúng hội dakini.
18. Avaloketsvara (Quán Thế Âm), yidam hiện thân lòng bi vô cùng của chư Phật. Những hóa thân chính của Avaloketsvara ngày nay là đức Dalai Lama và đức Gyalwa Karmapa.

PHỤ CHÚ
1. Năm dakini chị em. Năm thiên nữ chị em : Dorje Tseringma, Dorje Yudonma, Miyolosangma, Chopen Drinzangma, và Tekar Drozangma.
2. Acharya Maitrepa. Thầy của Marpa, đã truyền cho ngài Đại Ấn. (Xem Chú thích 9, Phần Hai, Chương 2.)
3. Bốn Biểu Lộ Tối Thượngchi tiết của ba phương diện của Phật, tức là Tự tánh thân (Svabhavekakaya), Pháp thân (Dharmakaya), Báo thân (Shambayakaya) và Hóa thân (Nirmanakaya).
4. Năm Phương Diện của Trí Huệ : Xem Chú thích 13, Lời Mở Đầu và Chú thích 2, Phần Một, Chương 3.

KẾT TỪ
1. Bảy Ngọc Báu của các Bậc Giác Ngộ. Bảy Ngọc Báu của các A La Hán được gọi như vậy vì chúng cần thiết cho sự hoàn thành giải thoát : (1) niềm tin đầy đủ vào Tam Bảo, (2) trong sạch về đạo đức, (3) rộng lượng, (4) sở đắc hiểu biết chơn chánh, (5) cần mẫn tích cực, (6) tự chế trong những cân nhắc về xã hội và môi trường, và (7) hạnh kiểm tận tâm, chu đáo.
 
 

1998

NHỮNG KHAI THỊ TỪ ĐỨC LIÊN HOA SANH VỀ CON ĐƯỜNG ĐẠI TOÀN THIỆN – Padmasambhava

TRÍ HUỆĐẠI BI – Dalai Lama Thứ 14

MỘT TIA SẤM CHỚP SÁNG TRONG ĐÊM TỐI – Dalai Lama Thứ 14 

1999
KHO TÀNG TÂM CỦA CÁC BẬC GIÁC NGỘ – Dilgo Khyentse

ĐẠI TOÀN THIỆN TỰ NHIÊN – Khenpo Nyoshul

CON ĐƯỜNG ĐẾN TỰ DO VÔ THƯỢNG – Dalai Lama Thứ 14

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA – Lama Yeshe

CUỘC ĐỜI SIÊU VIỆT CỦA 16 VỊ TỔ KARMAPA TÂY TẠNG – Karma Thinley

MẬT THỪA TÂY TẠNG – Tsong Khapa và Dalai Lama Thứ 14 

2000
NHỮNG YOGA TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ – Tenzin Wangyal Rinpoche

NHỮNG GIÁO HUẤN CỦA GAMPOPA – Lama Yeshe Gyamtso và Evans Wentz

TU HÀNH TÂM LINH – Tulku Pema Wangyal 

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM – Tulku Thondup

PHẬT TÂM – Longchen Rabjam

MILAREPA Lobsang P. Lhalungpa


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19427)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18530)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16060)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29872)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25462)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21607)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17812)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20824)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26339)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33331)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52155)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22877)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23411)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39651)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21794)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22386)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6839)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22732)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69809)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44012)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23073)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35040)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44098)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42918)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44423)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24916)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24358)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39210)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39238)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17255)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18042)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19260)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24219)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19588)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20405)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18313)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19001)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18942)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17476)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19322)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30834)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19193)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20528)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19560)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19767)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29826)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17836)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19410)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19881)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58771)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24405)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23518)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39765)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26719)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40764)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22870)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22923)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21597)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18620)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22594)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21086)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19216)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20933)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20333)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30556)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20183)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17466)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16599)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16851)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14961)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14837)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22868)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16047)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16210)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15257)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26110)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17194)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15796)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19771)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17673)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14683)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14733)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19128)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15121)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33057)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17491)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19128)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21822)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23009)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16623)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16469)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16513)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22992)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12749)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29515)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27718)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25914)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18463)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant