Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Một: Tìm Cầu Pháp

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8147)
Chương Một: Tìm Cầu Pháp

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN HAI

Phần hai gồm chín chương, chỉ ra như thế nào Milarepa đã đi trên con đường của mình đến sự an lạc tối thượng của niết bàn.

Chương thứ nhất: Sự ghê tởm và hối hận làm cho ngài đi tìm một lama thực sự toàn hảo.

Chương thứ hai: Khi đã tìm được vị ấy và phục tùng kỷ luật của vị ấy, ngài chịu đựng những thử thách khó tưởng tượng đến độ ngài hoàn toàn tẩy sạch những dơ bẩn của các ác hạnh và những nhiễm ô của tâm thức.

Chương thứ ba : Rồi, có được tình thương mến của lama, ngài nhận được từ lama giáo lý và những phương pháp dẫn đến Giác Ngộ.

Chương thứ tư : Thiền định trong sự có mặt trực tiếp của lama, ngài kinh nghiệm bình minh của sự Thức Tỉnh.

Chương thứ năm : Sau khi hoàn thành sự thực hành những giáo lý ấy, ngài tìm kiếm những giáo huấn bí mật như đã được chỉ bảo trong một giấc mộng. Rồi ngài từ giã lama.

Chương thứ sáu: Gặp gỡ sự hiển nhiên mới về tính phù phiếm hư vọng của thế gian, ngài phát nguyện hiến mình cho thiền định.

Chương thứ bảy: Để thực hiện những giáo huấn của lama, ngài từ bỏ tất cả những bám luyến vào cuộc đời thế giantrọn vẹn hiến mình cho thiền định và sự khổ hạnh kịch liệt trong hoang vắng núi non.

Chương thứ tám: Do thiền định như thế, kinh nghiệm về Thức Tỉnh đến chỗ viên mãn. Như một kết quả của sự thành tựu, ngài đem lợi lạc đến cho giáo pháp và cho tất cả chúng sanh.

Chương thứ chín: Đã hoàn thành mọi hoạt động của một bậc Giác Ngộ, ngài tiêu dung thân thể vào Không Gian Trùm Khắp để làm khởi lên một thúc đẩy tâm linh trong tất cả chúng sanh.

CHƯƠNG MỘT
TÌM CẦU PHÁP

Bấy giờ Retchung hỏi, “Thưa lama, ngài nói đã làm những thiện hạnh, và không có những việc làm nào xứng đáng hơn hiến mình cho Pháp. Thưa Đạo sư, trước tiên thầy gặp giáo lý như thế nào?” Và Bậc Tôn Quý tiếp tục như thế này :

Thầy ngập đầy hối hận cắn rứt vì cái ác thầy đã làm bằng huyền thuật. Sự mong mỏi giáo pháp của thầy ám ảnh thầy đến độ thầy quên cả ăn. Nếu thầy đi ra, thầy muốn ở nhà. Nếu thầy ở nhà, thầy muốn đi ra. Ban đêm giấc ngủ trốn đâu mất. Thầy không dám thổ lộ sự buồn rầu và mong cầu giải thoát của thầy với vị lama. Khi thầy hầu hạ vị lama, thầy tự hỏi không ngừng và tha thiết làm cách nào thầy có thể thực hành chánh pháp.

Vào thời gian đó, vị lama vẫn tiếp tục nhận những lương thực và những thứ cần thiết từ một chủ đất giàu có. Ông chủ đất này bị một bệnh rất nặng. Vị lama là người đầu tiên được mời đến chữa bệnh, và ba ngày sau ông trở về, im lặngthiểu não. Thầy hỏi ông, “Thưa đạo sư, tại sao thầy có khuôn mặt im lặng và buồn rầu?”

Vị lama trả lời, “Mọi sự đều vô thường. Hôm qua người thí chủ rất tốt của ta đã chết. Bởi thế vòng sanh tử làm lòng ta nặng trĩu. Nhưng trên hết là ta đã già rồi. Và thế mà từ thời trai trẻ răng trắng tinh cho đến tuổi già tóc bạc, ta đã chỉ làm hại nhiều chúng sanh bằng tà chú, huyền thuật và mưa đá. Con cũng vậy, dù còn nhỏ, mà đã tích tập những tội ác của huyền thuật và mưa đá. Những tội lỗi đó cũng đổ lên đầu ta nữa.”

Thầy hỏi, “Thầy không có cách nào giúp đỡ những nạn nhân ấy đạt đến những cõi cao hơn và đạt được giải thoát sao?”

Vị lama trả lời, “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta biết một cách lý thuyết làm sao để dẫn dắt họ đến những cõi cao hơn và đến giải thoát, nhưng khi những duyên khởi lên khảo hạch sự tu chứng thực sự của ta, ta chỉ còn nhớ những chữ và ý niệm. Ta không tự tin vào khả năng của ta có thể giúp đỡ được chúng sanh. Nhưng bây giờ ta sắp đi thực hành Pháp để có thể gặp gỡ bất kỳ hoàn cảnh nào sanh khởi. Hoặc là con ở đây hướng dẫn cho các đệ tử của ta để ta chuyên cần vào việc thực hành đưa đến những cõi cao hơn và giải thoát, hay con phải tự mình thực hành Pháp và giúp đỡ chúng ta, tất cả đều thành tựu những cõi cao hơn và giải thoát. Trong thời gian ấy ta sẽ cung cấp cho con một lương thực con cần.”

Như thế là ý nguyện của thầy đã được đáp ứng và thầy trả lời rằng thầy muốn tự mình thực hành Pháp.

“Tốt lắm, vậy thì bởi vì con còn trẻ, vì sự nhiệt thành và niềm tin của con rất lớn lao, con hãy thực hành cái thanh tịnh nhất của tất cả giáo pháp.”

Và ông cho thầy một con trâu yak với vải len từ Yarlung.

Rồi ông nói với thầy, “Trong làng Nar miền Tsangrong, có một lama tên là Rongton Lhaga (Niềm Vui của chư Thiên). Hiểu biết của ngài về Đại Toàn Thiện (Dzogchen) đã đưa ngài đến mục đích. Hãy đi đến đó và có giáo lý ấy được giải thích cho con và hãy tịnh hóa chính con.”

Theo lời dạy của vị lama, thầy đến Nar miền Tsangrong và hỏi thăm.

Người vợ của lama và vài nhà sư ở đó nói với thầy, “Đây là tu viện chính, nhưng Lama Rongton Lhaga không có ở đây lúc này. Ngài đang ở tu viện con trên núi Nyang Thượng.”

“Tốt lắm, thầy nói, tôi là một sứ giả do Lama Yungton Trošgyel gởi đến. Hãy giúp tôi tìm ra lama của các ông.”

Thầy kể cho họ tất cả câu chuyện của thầy. Vợ vị lama nhờ một nhà sư dẫn thầy đến vị lama, và thầy gặp ngài ở Rinang vùng Nyang Thượng. Thầy biếu ngài con trâu yak và vải len.

Sau khi đảnh lễ, thầy nói, “Người đến với ngài là một kẻ đại tội lỗi. Xin ban cho con giáo pháp sẽ giải thoát con khỏi vòng sanh tử luân hồi ngay trong đời này.”

Vị lama trả lời, “Giáo Pháp Đại Toàn Thiện này,(1) dẫn người ta toàn thiện ở gốc, toàn thiện ở ngọn và toàn thiện nơi quả của sự thành tựu. Thiền định về nó ban ngày bèn là Phật trong một ngày. Thiền định về nó ban đêm bèn là Phật trong một đêm. Đối với người nào phước đức với nghiệp tốt, họ chỉ may mắn nghe được nó, không thiền định về nó, giáo pháp hoan hỷ này chắc chắnphương tiện của giải thoát cho họ. Đấy là tại sao ta muốn truyền nó cho ngươi.”

Và vị lama ban cho thầy sự nhập môngiáo huấn.

Bấy giờ thầy nghĩ, “Trong quá khứ, ta đã đạt được những kết quả lớn lao về chú thuật trong mười bốn ngày. Bảy ngày nữa là đủ thành tựu mưa đá. Nhưng đây là một pháp môn đạt đến giác ngộ còn dễ hơn cả làm mưa đá hay huyền thuật gây chết chóc. Nếu ta thiền định nó vào ban đêm ta sẽ được tịnh hóa trong một đêm, nếu ta thiền định nó vào ban ngày ta sẽ được tịnh hóa trong một ngày. Nhờ sự gặp gỡ giáo pháp này, ta cũng đã trở thành một trong những Bồ tát phước đức mà chỉ nghe giáo pháp là đủ giải thoát, thậm chí không cần thiền định về nó.” Hoan hỷthắng lợisuy nghĩ theo cách đó, không cần thiền định, thầy dùng thì giờ để ngủ. Thế là thầy để đạo Phật một bên và thân phận con người một bên, và sau vài ngày, vị lama nói với thầy, “Ban đầu khi lễ ta, con nói là con đến như một người đại tội lỗi. Điều đó hoàn toàn đúng. Tự hào về giáo pháp của ta, ta đã nói cho con quá sớm. Ta không thể dẫn dắt con đến giải thoát. Hãy đến tu viện Drowo Lung (Thung Lũng Gỗ Bu Lô) trong tỉnh Lhobrak miền nam. Ở đó có Marpa nổi tiếng, đệ tử trực tiếp của Đại Đạo Sư Naropa Ấn Độ, vị thánh của dòng Mật thừa tân phái và là vua của các nhà dịch giả, người không ai sánh nổi trong ba cõi. Con và ngài đã có những mối liên kết nghiệp trong quá khứ. Đó là tại sao con phải đi đến ngài.”

Vừa mới nghe tên Marpa Dịch Giả thầy đã tràn ngập một hạnh phúc không thể diễn tả. Trong niềm vui, mỗi một sợi lông tóc trên thân thể thầy đều rung động. Thầy nức nở với sự tôn thờ nồng nhiệt. Khóa kín toàn bộ tâm thức thầy trong chỉ một tư tưởng, thầy ra đi với lương thực và một cuốn sách. Không xao lãng bằng tư tưởng nào khác, thầy không ngừng tự hỏi, “Bao giờ ? Bao giờ tôi sẽ diện đối diện với vị lama ?”

Đêm trước khi thầy đến Drowo Lung, Marpa thấy Đại Đạo Sư Naropa trong một giấc mộng. Đức Naropa ban phước cho ngài, đưa cho ngài một chày kim cương năm ngạnh bằng đá da trời hơi hoen ố. Cùng lúc Naropa đưa cho ngài một bình bằng vàng chứa đầy cam lồ và nói với ngài, “Với nước trong bình này hãy rửa sạch cái dơ bẩn của chày kim cương, rồi treo nó lên đỉnh ngọn cờ chiến thắng.(2) Điều này sẽ làm hài lòng chư Phật quá khứ và làm cho tất cả chúng sanh hạnh phúc, như thế là làm tròn mục đích của con và của những người khác.”

Rồi Naropa biến mất. Theo những giáo huấn của Đạo sư mình, Marpa rửa chày kim cương với nước trong bình, và treo nó lên đỉnh ngọn cờ chiến thắng. Bấy giờ sự rực rỡ của chày kim cương này làm ngời sáng toàn thể vũ trụ. Tức thì chúng sanh trong sáu nẻo, ngạc nhiên vì ánh sáng chiếu tới, được giải thoát khỏi đau buồn và ngập đầy hạnh phúc. Họ sẽ lạy và quy hướng về Marpa Tôn Quý và ngọn cờ chiến thắng của ngài, ngọn cờ này được chư Phật quá khứ thụ phong.

Ngạc nhiên về giấc mơ này, Marpa thức dậy. Ngài tràn đầy niềm vui và thương yêu. Vào lúc đó, vợ ngài đến để dọn cho ngài thức uống nóng buổi sáng và bà nói, “Ôi, Lama, hồi hôm tôi có một giấc mơ. Hai người đàn bà nói là họ đến từ Ugyen phía bắc, mang theo cái tháp đựng xá lợi bằng pha lê. Tháp này có một số dơ bẩn trên mặt. Và hai người đàn bà nói, “Naropa bảo lama cử hành lễ chú nguyện thụ phong cho cái tháp và đặt nó trên đỉnh một ngọn núi.” Rồi chính ông kêu lên, “Dù Đạo sư Naropa đã ban phước thụ phong cho cái tháp này, ta phải vâng lời chỉ bảo của ngài.” Và ông rửa cái tháp bằng nước tẩy tịnh trong cái bình và thực hiện lễ thụ phong. Sau đó ông đặt nó lên đỉnh núi, nó phát ra vô số tia sáng chói như mặt trờimặt trăng và phóng chiếu ra nhiều phiên bản của chính nó trên những đỉnh núi. Và hai người đàn bà trông giữ cho những cái tháp ấy. Đó là giấc mộng của tôi. Nó có nghĩa gì?”

Marpa thầm nghĩ, “Hai giấc mơ này rất tương hợp”, và lòng ngài tràn đầy niềm vui cực kỳ, nhưng với vợ ngài chỉ nói, “Tôi không biết ý nghĩa bởi vì những giấc mơ ấy không có nguồn gốc. Bây giờ tôi sắp đi cày miếng ruộng gần đường. Hãy sửa soạn giùm.”

Vợ ngài trả lời, “Nhưng đó là công việc của những người làm nông. Nếu ông, một đại lama, mà làm việc ấy thì mọi người sẽ cười chúng ta. Bởi thế, tôi xin ông đừng đi.”

Vị lama chẳng chú ý đến bà. “Đem cho tôi nhiều bia”, ngài nói. Và ngài lấy ra một vại đầy, nói thêm, “Tôi sẽ uống bia này. Hãy đem thêm nữa cho một người khách.”

Ngài cầm một vại đầy khác, và ra đi. Khi đến cánh đồng, ngài chôn nó xuống đất và phủ nón lên. Rồi khi đang cày miếng đất, ngài trông ra đường. Và uống phần bia, ngài chờ đợi.

Trong thời gian đó thầy đang trên đường. Khởi hành từ phần thấp xứ Lhobrak (Vách Đá Phía Nam), thầy bắt đầu hỏi mọi người qua đường Marpa Đại Dịch Giả sống ở đâu. Nhưng không có ai biết ngài. Khi thầy đến khoảng đèo từ đó người ta có thể thấy tu viện Drowo Lung, thầy đặt cùng câu hỏi với một người đang đi qua.

Ông trả lời, “Chắc chắn có một người tên là Marpa. Nhưng không có ai là Marpa Đại Dịch Giả.”

Thế thì Drowo Lung ở đâu ?”
Ông chỉ nó và tôi hỏi lại, “Ai sống trong Drowo Lung ?”
“Người tên Marpa sống ở đó.”
“Và ông ta có tên gì khác không ?”
Có người gọi ông là Lama Marpa.”
“Vậy thì đó đúng là chỗ vị lama ấy sống. Và cái đèo này gọi là gì?”
“Nó có tên là Chola Gang (Sống Đất của Đạo).”

Thầy tiếp tục con đường, và vẫn hỏi tiếp. Có nhiều người chăn cừu và thầy hỏi họ. Người già nhất trả lời họ không biết. Trong bọn họ có một đứa nhỏ vẻ mặt đáng yêu, tóc chải dầu, quần áo tươm tất, nói rằng, “Chắc anh muốn nói đến cha tôi ? Nếu thế thì cha tôi dùng tất cả tài sản để mua vàng và đi Ấn Độ. Ông đem về nhiều sách trang hoàng với đá quý. Thường thường ông không làm việc, nhưng hôm nay ông đang cày trên đồng.”

Thầy thầm nghĩ, “Đứa bé này nói có vẻ như là vị lama, nhưng một đại lama đi cày ruộng ư ?” Và thầy tiếp tục con đường.

Ở bên đường, một nhà sư cao lớn, mập mạp, với đôi mắt lớn và trông có vẻ uy nghiêm, đang cày ruộng. Vừa mới thấy ông, thầy tràn đầy niềm vui không thể thốt nên lời và an lạc không thể tưởng. Sửng sốt một chốc lát vì sự nhìn thấy này, thầy như bất động. Rồi thầy nói, “Thưa Đạo sư, con có nghe rằng Marpa Dịch Giả, đệ tử nối pháp của Naropa vinh quang, ở trong vùng này. Nhà vị ấy ở đâu ?” Ông nhìn thầy từ đầu đến chân một hồi lâu. Rồi ông nói, “Ngươi là ai ?”

Thầy trả lời, “Con là một người đại tội lỗi và con đến từ Tsang Thượng. Nghe đại danh của Marpa, con đến cầu xin giáo pháp của ngài.”

“Tốt lắm, ta sẽ sắp xếp cho anh gặp Marpa. Trong khi đó, hãy cày ruộng đi.”

Ông lấy vại bia từ dưới đất có phủ nón và đưa cho thầy. Bia này tươi mát và rất ngon.

“Làm mạnh mẽ lên”, ông nói thêm rồi bỏ đi.

Uống xong phần bia còn lại, thầy làm việc hăng hái. Sau một lúc đứa trẻ hồi nãy đã chỉ dẫn cho thầy đến tìm thầy.

Thầy rất vui mừng khi nó nói, “Anh hãy về nhà và hầu hạ lama.”

Vì nó nôn nóng giới thiệu thầy với lama, thầy nói, “Anh còn làm cho xong công việc này đã.” Rồi thầy cày hết phần còn lại. Vì miếng ruộng ấy là cơ hội cho sự gặp gỡ của thầy với lama, thầy gọi nó là Tušhngken (Thửa Ruộng Cơ Hội). Vào mùa hè con đường mòn chạy dọc bờ ruộng, nhưng về mùa đông nó đi xuyên qua.

Thầy theo cậu bé về nhà. Cũng nhà sư hồi nãy thầy đã gặp đang ngồi trên hai tấm đệm phủ thảm với một cái gối sau lưng. Ngài đã lau mặt nhưng lông mày, mũi, và râu còn dính bụi và ngài đang dùng bữa ăn.

Thầy nghĩ, “Đây là nhà sư hồi nãy. Vậy thì vị lama ở đâu ?” Bấy giờ nhà sư nói, “Hẳn nhiên là con không biết ta. Ta là Marpa. Hãy lạy đi!”

Thầy vội đảnh lễ dưới chân ngài. “Lama Rinpoche,(3) con là một kẻ đại tội lỗi từ miền tây Tây Tạng. Con dâng cúng ngài thân, khẩu, tâm của con. Xin thầy ban cho con thực phẩm, quần áo và giáo pháp. Xin thầy dạy cho con con đường đưa đến Giác Ngộ trong hiện đời này.”

Lama trả lời, “Ta không muốn nghe ba cái chuyện mê sảng của ngươi về việc ngươi là một kẻ đại tội lỗi. Ta chưa hề khiến ngươi phạm vào một tội lỗi nào. Vậy thì ngươi đã phạm tội gì ?”

Bây giờ thầy phát lồ đầy đủ những tội ác của thầy trong đời. Lama nói với thầy, “Thế đấy, ngươi đã làm tất cả các thứ đó. Dù sao, ngươi dâng cúng thân, khẩu, tâm của ngươi là tốt. Nhưng ta sẽ không cho ngươi thức ăn, quần áo và cả giáo pháp. Ta sẽ cho ngươi thức ăn, quần áo nhưng giáo pháp thì ngươi phải cầu ở nơi khác. Hay, nếu ta cho ngươi giáo pháp, thì hãy tìm ở chỗ khác thực phẩm và áo quần. Hãy chọn giữa hai cái đó. Nhưng nếu ngươi chọn Pháp, thì việc ngươi có đạt đến Giác Ngộ trong đời này hay không, tất cả sẽ chỉ tùy thuộc vào nỗ lực riêng của ngươi.”

Thầy trả lời, “Bạch Thầy, con đến với thầy là vì Pháp, cho nên con sẽ kiếm thức ăn và quần áo ở nơi khác.”

Khi thầy đặt cuốn sách trong phòng thờ của ngài, ngài nói, “Hãy đem cuốn sách bẩn thỉu đó đi; nó làm ô uế những đồ thờ cúngbàn thờ của ta.”

Thầy nghĩ, “Ngài làm như vậy vì cuốn sách của mình có nhuốm mùi hắc thuật.”

Cẩn thận, thầy đem nó đi. Thầy ở lại với Marpa thêm vài ngày nữa. Vợ ngài lama cho thầy những bữa ăn ngon.

Milarepa nói như thế. Đó là cách ngài gặp Đạo sư của mình. Đây là chương thứ nhất diễn tả những thiện hạnh của ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19530)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18636)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16175)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 30012)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25575)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21709)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17887)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20874)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26402)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33432)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52288)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22946)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23468)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39754)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21859)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22473)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6909)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22784)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69909)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44127)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23183)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35152)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44185)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42985)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44525)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24975)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24436)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39317)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39352)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17311)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18106)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19327)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35751)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24302)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19680)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20469)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18377)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19102)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 19006)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17553)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19390)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30965)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19270)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20593)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19645)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19851)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29925)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17889)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19474)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19939)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58883)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24465)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23609)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39850)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26780)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40855)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22937)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22999)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21675)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18700)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22637)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21123)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19279)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20994)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20408)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30613)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20243)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17520)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16658)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16929)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14997)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14903)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22940)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16097)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16269)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15324)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26245)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17273)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15903)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19887)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17774)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14768)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14816)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19226)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15221)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33148)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17584)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19217)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21902)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23153)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16708)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16585)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16637)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23102)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26515)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12838)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29635)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27852)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26022)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18529)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant