Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Tinh thần thể nghiệm của thiền

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13609)
II. Tinh thần thể nghiệm của thiền

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

Ý CHỈ BẤT LẬP VĂN TỰ


II. TINH THẦN THỂ NGHIỆM CỦA THIỀN

Nói “giáo ngoại biệt truyền”, nói “bất lập văn tự”, với tinh thần đó, thiền môn luôn đòi hỏi người học phải tự thể nghiệm thực sự nơi chính mình, bằng một sức sống chân thật ngay trong lòng mình, chớ không thể chỉ hiểu suông. Phật pháp sâu xa màu nhiệm đã trải qua thời gian dài của sự truyền bá, mà phương tiện truyền bácõi Ta Bà này lại là ngôn ngữ văn tự, vì vậy con người dần dần lọt vào cái khuôn chữ nghĩa, thiếu mất sức sống chân thật nơi tự tâm, đó là điều Phật Tổ hằng lo lắng. Nếu khôngsự thể nghiệm ấy, thì làm sao có sự chuyển hóa tập khí chính mình, có sức thắng được phiền não sanh tử? Khẩu đầu thiền, thiền đầu môi, là câu mà các Thiền sư thường quở trách, mình có vượt khỏi được chưa?

Hòa thượng Châu Hoằng, một hôm Sư đang chép kinh Thập Thiện, có ông tăng đến nói với Sư:

- Trong pháp của tôi thì một hạt bụi chẳng lập, đâu bày ra mười hạnh (thập thiện) làm gì?

Hòa thượng Châu Hoằng liền bảo:

- Năm uẩn lăng xăng, bốn đại dẫy đầy, sao bảo là không hạt bụi?

Tăng nói:

- Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có.

Bất ngờ Sư tát cho ông một tát tai bảo:

- Hạng học nói suông như mè, như lúa, chưa đúng hãy nói lại!

Tăng không đáp được bực bội đứng dậy. Sư cười bảo:

- Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao ông chẳng phủi đi?

Nói “một hạt bụi chẳng lập” nghe hay qua nhưng bị tát một cái liền bực bội thì có lập hay không? Ngay đó thì “bốn đại vốn không, năm ấm chẳng phải có” đã bay đi đâu mất rồi! Do đó, Hòa thượng Châu Hoằng mới bảo: “Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao chẳng phủi đi?” Chớ nói suông vô ích!

Bởi vậy Thiền tông rất chú trọng đến sự thể nghiệm, thường quở trách thiền trên chót lưỡi và hay đả phá kiến giải suông, đưa người thẳng vào. Nan-in, một Thiền sư Nhật thuộc thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912), nhân một hôm có vị giáo sư đại học đến hỏi về thiền. Thiền sư rót trà mời ông. Tách trà đã đầy, nhưng Thiền sư cứ tự nhiên rót tiếp không ngừng. Nước tràn ra ngoài. Vị giáo sư không kềm được nữa, phải thốt lên:

- Đầy tràn rồi! Xin thầy đừng rót nữa!

Thiền sư Nan-in thong thả bảo:

- Cũng giống như tách nước này, trong ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông thì làm sao tôi còn có chỗ để tỏ bày thiền cho ông được, trừ khi ông chịu cạn cái tách của ông trước đi!

Thật là một ý nghĩa thâm thúy! Câu chuyện ngầm nói lến, người đến với thiền mà torng đầu còn chứa đầy ắp những kiến thức vay mượn, ôm một khối to khái niệm hiểu biết thì còn mong gì tiếp nhận được nữa! Như thế là đến để phô bày kiến thức, đâu phải đến để học thiền!

  • Thiền nhổ đinh tháo chốt, không lập một pháp.

Chính vì lẽ trên, thiền vốn không lập một pháp thật, không có gì để cho người nhận, chỉ cốt nhổ đinh tháo chốt, cởi mở tình chấp cho người, khiến người tự sống dậy. Hỏi: Thế nào là Phật. Đáp: Ba cân gai. Thì có gì để hiểu? Có gì để nhận? Chừng nào trong đầu bạn còn có một khái niệm, cón có một kiến giải chắc thật thì Thiền sư vẫn còn đập phá để cho trong lòng bạn thật rỗng rang không một vật mới mong khế hợp cơ thiền. Hãy nhìn Huệ Nam bị Từ Minh mắng chửi! Sư ở pháp hội của Thiền sư Thê Hiền được cử làm thư ký. Chợt Thê Hiền tịch, quận thú mời Từ Minh đến trụ trì. Được tin này Sư rất vui mừng, có cơ hội để nghiệm xét lời Văn Duyệt nói với Sư trước kia, lúc ở Tây Sơn, Duyệt đã thúc đẩy Sư đến gặp Từ Minh.

Khi Từ Minh đến, Sư trông thấy ngài thì thân tâm đều cung kính. Kế nghe Từ Minh luận nói, phần nhiều ngài chê các nơi, mỗi điều đều trách là thuộc tà giải. Chính chỗ Sư được mật chỉ nơi Phần Đàm cũng bị bác bỏ. Sư nhớ lại lời nói của Văn Duyêt lúc trước rất đúng. Sư liền thay đổi quan niệm nói:

- Đại trượng phu trong thâm tâm cứ nghi ngại hoài sao?

Sư liền vào thất Từ Minh thưa:

- Huệ Nam tối dốt, trông đạo mà chưa thấy. Giờ tham thiền khi hôm, nghe thầy dạy, như người đi lạc đường được xe chỉ nam. Cúi xin Hòa thượng đại từ bố thí pháp khiến cho con được hết nghi ngờ?

Từ Minh cười bảo:

- Thư ký đã lãnh đồ chúngdu phương nổi tiếng khắp tùng lâm,nếu còn có nghi ngờ thì chẳng khổ cầu như vậy, hãy ngồi mà thương lượng (bàn bạc).

Từ Minh liền gọi thị giả đem ghế mời Sư ngồi. Sư vẫn từ chối và thành khẩn tha thiết cầu chỉ dạy.

Từ Minh bảo:
- Thư ký học thiền Vân Môn ắt thông được yếu chỉ ấy. Như nói: “Tha Động Sơn ba gậy” Động Sơn khi ấy nên đánh hay chẳng nên đánh?
Sư thưa:
- Nên đánh.
Từ Minh nghiêm nghị bảo:
- Nghe tiếng “ba gậy” liền cho là nên ăn gậy, vậy ông từ sáng đến chiều nghe chim kêu, trống đánh, tiếng chuông, tiếng bảng cũng nên ăn ba gậy. Thế thì ăn gậy đến lúc nào mới thôi?
Sư chỉ nhìn sững mà thôi.
Từ Minh lại bảo:
- Tôi lúc đầu nghi không thể làm thầy ông. Giờ đây đã đủ tư cách làm thầy ông. Ông hãy lễ bái đi!
lễ bái xong, đứng dậy. Từ Minh nhắc lại lời trước:
- Nếu ông lãnh hội đựơc ý chỉ Vân Môn thì, Triệu Châu thường nói: “Bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá, thử chỉ ra chỗ khám phá xem?”
Sư mặt nóng hực, mồ hôi xuất hạn, không biết đáp thế nào, bị Từ Minh đuổi ra.
Hôm sau Sư lại vào thất, bị Từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn mọi người bên cạnh nói:
- Chính vì chưa hiểu mới cầu quyết nghi, mắng chửi đâu phải phải quy cũ từ bi thí pháp!
Từ Minh cười bảo:
- Đó là mắng chửi sao?
Ngay câu này Sư đại ngộ. Như vậy Từ Minh mắng chửi Huệ Nam có gì lạ? Bởi Huệ Nam đã là thư ký, đã từng chứa một bụng thiền rồi, lại kẹt theo lời, theo tiếng, nên Từ Minh mắng chửi cho nó xẹp, nó bể đi, cho hết còn chỗ để bám, mới bừng dậy sức sống mới. Nếu cứ để nó óch ách trong lòng, nó nặng trĩu trong đầu thì lại nuôi lớn ngã kiến và luôn bao bọc chung quanh một lớp si mê vô hình này, làm sao có kẻ hở để lóe sáng. Nghe mắng chửi hiểu là mắng chửi, tức là theo tiếng snah hiểu nữa rồi. Vì vậy Từ Minh đánh thức: “Đó là mắng chửi sao?” liền đó Huệ Nam chợt tỉnh dậy, vượt qua mọi khái niệm trong đầu.
Còn đây, Tuyết Phong hỏi Hòa thượng Đức Sơn:
- Việc trong tông thừa con có phần chăng?
Đức Sơn đánh cho một gậy bảo:
- Nó cái gì?
Sư liền như thùng lủng đáy.
Thùng lủng đáy tức lọt tuốt tất cả, không còn chứa lại một chút gì. Vậy mà ở Ngao Sơn, Sư còn thú thật với Nam Đầu: “Tôi thật còn chưa ổn.” Và chính nhờ Nam Đầu trợ giúp mới thành đạo tại Ngao Sơn này.

 " Chẳng mai một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương".

Hoàng Bá đã từng nhắc nhỏ, cảnh tỉnh cho người học thiền như thế. Bởi các ngài đã từng nếm qua việc này, từng kinh nghiệm xương máu nên mới nói ra những lời thành thật như trên. Người kiến giải cho đó là tầm thường. Người chứng nghiệm thì cảm sâu tận xương tủy, khó nói hết bằng lời, do đó rất thấm thía!

  • Thể nghiệm ở đâu?

Đã biết thiền cần phải thể nghiệm, không thể nói suông, nhưng thể nghiệm ở đâu?
Hỏi ở đâu lại là chưa biết thiền. Có ở đâu là thuộc cái bên ngoài, là đi vào chữ nghĩa nữa rồi. Thiền là phải thể nghiệm nơi tự tâm thôi, không thể có ở đâu khác. Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
- Khi ở ngay tâm, tâm chẳng lường biết thì thế nào?
Sư bảo:
- Lường biếtai?
Sư bảo:
- Không hai kẻ.
Đã ở ngay tâm, còn hỏi gì nữa? Hỏi như thế là chứng tỏ mình đang ở ngoài rồi. Bởi vậy trong đây vừa hỏi ở đâu, là xa mất ngay. Bởi, có ở đâu tức đặt thành chỗ nơi; mà có chỗ nơi tức bị dời đổi, đi vào luân hồi, xoay chuyển không biết ngày dừng!
Bảo Triệt cùng Đơn Hà đi đến núi Ma Cốc, Sư liền nói:
- Tôi đến trong đó trụ.
Đơn Hà bảo:
- Trụ tức lại trở về, có cái này không?
Sư nói:
- Trân trọng!
Đây cho thấy rõ hễ vừa có trụ tức thành có chỗ, mà có chỗ là rơi lại sanh tử, là quên mất chính mình. Với tâm phàm thì luôn luôn phải tìm chỗ nơi, bởi vì nó đang sống theo duyên, mất duyên thì chới với, mờ mịt. Kinh Lăng Nghiêm Phật đâu từng chẳng bảo A Nan: “Nếu thật là tâm tánh ông thì nó phải rời tiền trần mà có toàn tánh. Nếu rời tiền trần mà không có toàn tánh thì không phải thật.” Rõ ràng tâm duyên thì luôn bám vào tiền trần, nghĩa là luôn luôn tìm có bạn, không bạn thì dường như không có. Đó là sống lệ thuộc, sống nươgn tựa vất vưởng nên gọi đó là sống trong hư vọng. Trong khi đó chính mình đang hiện hữu ngay mọi hành động hằng ngày lại không biết.
Hòa thượng Huyền Sa dạy chúng:
- Những bậc lão túc các nơi trọn nói tiếp vật lợi sanh, bỗng gặp người có ba thứ bệnh đến thì làm sao tiếp?
Bệnh mù thì cầm chùy, dựng phất họ chẳng thấy. Bệnh điếc thì ngôn ngữ tam muội họ chẳng nghe. Bệnh câm thì dạy họ nói lại nói chẳng được. Vậy thì phải làm sao tiếp? Nếu tiếp chẳng được người này thì Phật pháp không còn linh nghiệm.
Có vị tăng đem việc này hỏi ngài Vận Môn. Vân Môn bảo:
- Ông lễ bái đi!
Tăng lễ bái xong đứng dậy. Vân Môn lấy cây gậy đưa tới, tăng lùi lại sau, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh mù.
Vân Môn gọi:
- Lại gần đây!
Tăng tiến lại gần, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh điếc.
Vân Môn dựng cây gậy lên hỏi:
- Lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
- Chẳng lãnh hội.
Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh câm.
Vị tăng liền tỉnh ngộ.
Người có ba thứ bệnh đó ở đâu?
Có phải là chúng ta đây chăng? Hiện tại thấy, nghe, đáp rõ ràng có thiếu chỗ nào đâu? Trái lại, ngay đó lầm qua mất thì có khác gì đui, điếc, câm! Cần thể nghiệm ngay chỗ này, chớ tìm đâu khác. Chính đó là bài pháp sống! Thiền sư luôn đánh thức người sống lại trong ấy.
Có một Thiền sư Nhật Bản tên Nhất Hưu lúc Sư ở dưới núi Tỉ Duệ, một hôm thấy tín đồ ùn ùn kéo nhau lên n1ui nhân đến kỳ tự viện trên đấy phơi tạng kinh. Theo truyền thuyết thì khi phơi tạng kinh, nếu ai được làn gío thổi trên trang kinh phất qua mình sẽ được tiêu trừ tai ách, tăng trưởng trí tuệ. Vì lẽ đó mà mọi người đua nhau lên núi để mong đón được ngọn gió đó. Thiền sư Nhất Hưu biết vậy, Sư cũng nói:
- Tôi cũng cần phơi tạng kinh.
Nói xong, Sư vạch áo bày trần hông bụng nằm trên bãi cỏ phơi dưới ánh mặt trời. Nhiều tín đồ trông thấy khó chịu, cho là thiếu lịch sự. Vị pháp sưtự viện trên n1ui nghe n1oi, bèn đến khuyên Nhất Hưu chẳng nên làm việc mất oai nghi như thế.
Thiền sư Nhất Hưu thật tình giải thích:
- Các ngài phơi tạng kinh đó là phơi tạng kinh chất, nó biết sanh mối mọt mà chẳng biết hoạt động. Còn tạng kinh của tôi phơi là Tạng kinh sống, nó biết nói pháp, biết làm việc, biết ăn cơm; Người có trí tuệ phải nhận rõ tạng kinh này mới quý giá! (Tinh Vân Thiền Thoại)
Đó là Thiền sư muốn đánh thức cho người hãy xoay lại chính mình, phải thể nghiệm được sức sống chân thật ngay chính mình đây, chỗ đó mới là chỗ đáng quý, mới có giá trị thực sự, không phải hiểu suông, không thể chết ở trên hình tướng bên ngoài.

  • Làm sao thể nghiệm?

Chỗ này phải chín chắn, chớ để bị ngôn ngữ chuyển. Nếu có làm sao tức thành tạo tác rồi và như vậy là không thể có thể nghiệm. Vì đã thành tạo tác là thuộc pháp sanh diệt, đó là cái có thể suy nghĩ, có thể hiểu biết, là vẫn nằm trong tình mê!
Thiền sư Pháp DiễnNgũ Tổ có lần thượng đường bảo:
- Hôm qua lão tăng vào trong thành thấy một cái giàn có người gỗ máy, luiền đến gần xem, thì thấy hoặc đẹp đẽ lạ lùng hoặc xấu xí vô kể, động chuyển đi ngồi, xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi thấy xong, đến khi chín chắn xem kỹ lại, vốn là miếng vải xanh bọc lại, bên trong có người. Lão tăng nhịn không nổi, bèn đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy bảo: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị kẻ ấy hỏi một câu, liền không lời có thể đáp, không lý có thể bày, trong đây có ai vì lão tăng nói được chăng?

 Hôm qua trong ấy rơi cành
Ngày nay trong đây nhổ gốc.

Đó là một bài pháp thiền. Hãy xem Thiền sư Pháp Diễn nói: Lão tăng đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy đáp: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Liền đó Sư không lời có thể đáp, không lý có thể bày. Đã thấy thì tự biết ngay, còn hỏi tên hỏi họ làm gì? Muốn diễn tả bằng lời để hiểu là tự trái xa rồi. Bởi hiểu được nó thì nó thành cái bị hiểu, là thuộc cái bóng thứ hai, không phải thật. Muốn đặt tên cho nó là gượng ép dán nhãn hiệu vào nó , biến nó thành vật để hiểu, tức ngay trước mắt lầm qua! “Hôm qua trong ấy rơi cành, ngày nay trong đây nhổ gốc”, quét sạch hết mọi chỗ cho ông có thể duyên, tự trong ấy sống dậy liền gặp nhau.
Để rõ thêm, chứng ta hãy nghe đoạn nhân duyên Hòa thượng Tùng Sơn với cư sĩ Bàng Uẩn uống trà, cư sĩ đưa tách trà lên hỏi:
- Mỗi người trọn một phần, vì sao nói chẳng được?
Tùng Sơn đáp:
- Sở dĩ nói chẳng được, chỉ vì mỗi người đều trọn có.
- Tại sao a huynh nói được?
- Chẳng thể không lời.
- Rõ ràng! Rõ ràng!
Sư bèn uống trà. Bàng Uẩn nói:
- A huynh uống trà sao chẳng mời khách.
- Ai?
- Bàng Công!
- Sao lại mời!
Đưa tách trà lên, ngưới người đều trọn thấy rõ, còn phải nói thế nào? Việc này đâu ai dối gạt được ai. Uống trà đi là xong. Đã là chính mình sao con2 phải đợ mời? Chỗ này ngôn ngữ làm sao nói hết? Chỉ phải một phen xông thẳng vào, tự sống dậy vỗ tay cười to ha hả là xong. Như Thủy Lạo hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ tống cho một đạp té nhào. Ngay đó Thủy Lạo đại ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to nói:
- Trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, chỉ ở trên đầu sợi lông đủ hết thảy.
Đó là đưa người thẳng vào thể nghiệm, không giải thích “làm sao?” “thế nào?” theo chữ nghĩa dài dòng. Thủy Lạo tự cảm nghiệm lấy trực tiếp cũng ra ngoài chỗ suy nghĩ tính trước. Người đứng bên ngoài khó hiểu nổi, dù có hiểu cũng hiểu méo mó theo ngã kiến.
Đạt Quán Dĩnh ở chỗ Hòa thượng Cốc Ẩn, sau khi được thầm khế hội, Sư hỏi:
- Như Thạch Đầu nói: Chấp sự nguyên là mê, khế lý cũng chẳng phải ngộ.
Cốc Ẩn hỏi:
- Ông cho là lời nói thuốc hay lời nói bệnh.
Sư thưa:
- Lời nói thuốc.
Cốc Ẩn quở:
- Ông lấy bệnh làm thuốc, lại đâu có thể được thay!
Sư nói:
- Sự như phong thư được gói kín. Lý như mũi tên thẳng đầu nhọn. Chỗ nhiệm mầu đâu có thêm mà còn cho là bệnh, thật chưa rõ yếu chỉ?
Cốc Ẩn bảo:
- Chỗ nhiệm mầu đến thế đó cũng chỉ gọi là lý sự. Chỗ ý chỉ của Tổ sư, trí biết không thể đến được, huống nữa là sự lý mà hay cùng tột đó sao? Cho nên đức Thế Tôn nói: Lý chướng ngăn ngại cái thấy biết đúng. Sự chướng tiếp nối các sanh tử.
Sư dường như chợt tỉnh cơn mộng thưa:
- Làm sao thọ dụng?
Cốc Ẩn bảo:
- Lời nói chẳng rời khuôn sáo cũ, làm sao ra khỏi ràng buộc.
Sư than:
- Vừa dính môi lưỡi, liền rơi vào ý nghĩ, trọn là cửa chết, rốt cuộc chẳng phải con đường sống vậy.
Chỗ “ý chỉ của Tổ sư” trí biết không thể đến được. Dù người thấy hiểu cao siêu đến đâu mà còn thấy có cái “lý” để khế hợp, là vẫn chưa phải thật hiểu, vì còn bị trí soi đến, còn luận bàn được, chưa gọi là nhiệm mầu. Đến chỗ thật nhiệm mầu thì vượt ngoài ngôn ngữ luận bàn, bỏ xa trí suy luận, chỉ có thể Phật cùng Phật biết đựơc thôi . Đó là chỗ chánh định tự thọ dụng, thiền chứng nghiệm chính ở trong ấy.
Hòa thượng Triệu Châu đã ngầm chỉ ý này qua đoạn nhân duyên có vị tín đồ đến hỏi Sư:
- Tham thiền thế nào mới hay ngộ đạo?
Chợt Sư đứng dậy khỏi tòa nói:
- Tôi cần đi tiểu xong đã.
Sư đi mấy bước, quay đầu lại bảo:
- Ông hãy xem đó! Việc nhỏ như đi tiểu thế ấy mà tôi cũng cần phải tự đi, người khác không thể thay thế được.
Ý Triệu Châu muốn chỉ việc này mình phải tự thể nghiệm ngay chính mình, không thể tìm nới người. Không ai thể nghiệm thay cho mình được. Còn hướng ra ngoài tìm cầu thì chỉ là đạp trên cảnh giới của người khác, chưa thể có sự chứng ngộ chân thật.
Nói thẳng, thiền là ở ngay đây, tại đây! Không thời gian! Vừa kẹt thời gian, liền có không gian, tức cách biệt ngay. Có vị tăng đến hỏi một Thiền sư:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Thiền sư bảo:
- Hãy đến gần đây!
Tăng đi đến gần, Sư bảo:
- Ông lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
- Dạ không.
Sư bảo:
- Như một ánh chớp đã qua bao a tăng kỳ kiếp.
Trong đây là phải thấy nhanh hơn làn chớp, không cho niệm thứ hai kịp xen vào. Chậm một chút là đã trải qua vô số kiếp rồi. Nhưng nhanh một chút cũng vượt qua vô số kiếp một cách dễ dàng. Bảo: Hãy đến gần đây! Liền đi đến gần. Ngay đây sẵn đủ tất cả! Chỉ phải trống lòng, sạch mọi kiến chấp, thẳng đó liền nhận, không trải qua thứ lớp. Thiền thể nghiệm là VƯỢT KHÔNG GIAN, THỜI GIAN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19529)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18634)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16172)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 30005)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25569)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21702)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17885)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20872)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26400)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33423)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52273)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22945)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23467)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39744)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21858)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22473)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6905)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22782)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69907)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44123)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23176)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35148)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44182)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42982)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44521)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24972)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24434)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39311)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39346)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17311)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18102)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19322)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35747)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24291)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19676)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20467)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18375)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19099)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 19000)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17551)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19389)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30960)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19268)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20589)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19640)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19847)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29923)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17886)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19470)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19935)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58867)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24463)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23609)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39849)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26771)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40843)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22936)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22994)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21669)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18697)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22634)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21123)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19276)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20992)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20406)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30612)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20241)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17517)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16657)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16927)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14997)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14896)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22938)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16096)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16268)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15320)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26239)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17266)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15899)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19885)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17773)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14766)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14816)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19224)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15219)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33140)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17580)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19214)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21896)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23135)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16706)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16575)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16634)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23099)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26511)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12826)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29631)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27849)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26021)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18526)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant