Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Tắc 01 - Tắc 03

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12563)
2. Tắc 01 - Tắc 03

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

TẮC 1

THÁNH ĐẾ ĐỆ NHẤT NGHĨA

LỜI DẪN: Cách núi thấy khói tức biết có lửa, cách tường thấy sừng liền biết có trâu. Nêu một rõ ba, mắt nhìn liền biết, cân lượng là việc tầm thường cơm nước trong nhà thiền. Đến như cắt đứt các dòng, Đông vọt lên Tây lặn xuống, dọc ngang thuận nghịch buông nắm tự tại, chính khi ấy hãy nói là chỗ hành lý của người nào? Thử xem sắn bìm của Tuyết Đậu.

CÔNG ÁN: Lương Võ Đế hỏi Đại sư Đạt-ma: “Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa?” Đạt-ma đáp: Rỗng thênh không Thánh. Vua hỏi: Đối trẫm là ai? Đạt-ma đáp: Chẳng biết. Vua không khế hội. Đạt-ma bèn sang sông đến Ngụy. Sau Vua đem việc này hỏi Hòa thượng Chí Công, Chí Công tâu: Bệ hạ lại biết người này chăng? Vua nói: Chẳng biết. Chí Công tâu: Đây là Quán Âm Đại sĩ truyền tâm ấn Phật. Vua hối hận sai sứ đi thỉnh trở lại. Chí Công tâu: Chẳng những bệ hạ sai sứ đi thỉnh chẳng được, dù người trong cả nước đi thỉnh y cũng chẳng trở lại.

GIẢI THÍCH: Tổ Đạt-ma xa xem thấy cõi này có căn khí Đại thừa vượt biển mà đến, riêng truyền tâm ấn, vạch bày những lớp mê, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Nếu thế ấy thấy được thì có phần tự do, chẳng bị tất cả ngôn ngữ chuyển, thoát thể hiện thành, liền hay ở sau cùng Võ Đế đối đáp và chỗ an tâm của Nhị Tổ tự nhiên thấy được, không có một mảy tình trần phân biệt, một đao chặt đứt thong dong tự tại, đâu cần phân phải phân quấy, biện được biện mất. Tuy nhiên thế ấy, khéo được có mấy người.

Võ Đế thường đắp ca-sa giảng kinh Phóng Quang Bát-nhã cảm được hoa trời rơi loạn, đất biến thành vàng, hiển đạo thờ Phật, ra chiếu cho toàn dân cất chùa độ Tăng, y kinh điển tu hành, người đời gọi ông là Phật tâm Thiên tử. Tổ Đạt-ma vừa gặp Võ Đế, Vua hỏi: Trẫm cất chùa độ Tăngcông đức gì? Đạt-ma đáp: Không công đức. Đây là tạt một gáo nước lạnh vào mặt. Nếu thấu được câu không công đức này, bảo ông thấy Tổ Đạt-ma. Hãy nói cất chùa độ Tăng tại sao toàn không công đức? Ý này ở chỗ nào? Võ Đế cùng Pháp sư Lũ Ước, Phó Đại sĩ, Thái tử Chiêu Minh luận bàn về chân đế, tục đế, cứ theo trong kinh nói: Chân đế để rõ phi hữu, tục đế để rõ phi vô, chân tục không hai tức là Thánh đế đệ nhất nghĩa. Đây là chỗ cực diệu cùng huyền của giáo lý. Vua đem chỗ cực tắc này hỏi Tổ Đạt-ma: Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa? Tổ Đạt-ma đáp: Rỗng thênh không Thánh. Thiền tăng khắp nơi nhảy không khỏi chỗ này. Tổ Đạt-ma cho y một đao đứt sạch. Ngày nay có một số người hiểu lầm trở lại đùa tinh hồn, trợn mắt đứng tròng bảo: Rỗng thênh không Thánh. Đáng cười không dính dáng. Ngũ Tổ tiên sư (Pháp Diễn) nói: “Chỉ câu ‘rỗng thênh không Thánh’ nếu người thấu được về nhà ngồi an ổn, còn bậc nhất đẳng thì làm sắn bìm, chẳng ngại cho y đập bể thùng sơn.” Tổ Đạt-ma thật là kỳ đặc, là tại tham thấu một câu thì ngàn câu muôn câu đồng thời thấu, tự nhiên ngồi được đoạn, nằm được định. Người xưa nói: “Tan xương nát thịt chưa đủ đền, một câu rõ suốt vượt trăm ức.” Tổ Đạt-ma bổ thẳng vào đầu, cùng y một phen ló đuôi rồi. Vua chẳng tỉnh lại đem chấp nhân ngã hỏi lại: “Đối trẫm là ai?” Tổ Đạt-ma từ bi quá lắm, lại nhằm y nói: “Chẳng biết.” Liền đó Võ Đế sửng sốt không biết chỗ rơi, ấy là lời nói gì? Đến trong đó, có việc không việc đem lại đều không kham. Hòa thượng Nghĩa Đoan có làm bài tụng:

TỤNG:

Nhất tiễn tầm thường lạc nhất điêu
Cánh gia nhất tiễn dĩ tương nhiêu
Trực qui Thiếu Thất phong tiền tọa
Lương chúa hưu ngôn cánh khứ chiêu.

DỊCH:

Một mũi tầm thường rớt một con
Lại thêm một mũi tỏ lòng son
Thẳng về Thiếu Thất ngồi trên đảnh
Lương chúa thôi đừng có ngóng mong.

Lại bảo: Ai ngóng mong. Vua chẳng hội bèn ra khỏi nước. Cái lão này chỉ đành bối rối qua sông đến nước Ngụy, nhằm lúc vua Hiếu Minh Đế đang trị vì, ông là người chủng tộc phương Bắc họ Thác Bạc, sau này mới gọi là Trung Quốc. Tổ Đạt-ma đến nước này cũng không yết kiến Vua, đi thẳng đến Thiếu Lâm ngồi xây mặt vô vách chín năm, tiếp được Nhị Tổ, phương này gọi Ngài là Bích Quán Bà-la-môn. Vua Võ Đế sau hỏi Chí Công, Chí Công tâu: Bệ hạ biết người này chăng? Vua bảo: Chẳng biết. Câu này cùng câu “chẳng biết” của Tổ Đạt-ma là đồng là khác? Giống thì cũng giống, phải thì chẳng phải. Nhiều người hiểu lầm nói: Trước kia Tổ Đạt-ma đáp ông là Thiền, sau này Võ Đế đáp Chí Công “chẳng biết” là chẳng biết nhau. Thật nào có dính dáng. Chính khi Chí Công hỏi thế ấy, hãy nói đáp thế nào? Sao chẳng đập một gậy chết tốt cho rồi, để khỏi thấy bôi hồ trét lọ. Võ Đế lại đáp ông: Chẳng biết. Chí Công gặp lúc phải làm, liền nói: Đây là Quán Âm Đại sĩ truyền Phật tâm ấn. Võ Đế hối hận sai sứ đi thỉnh lại. Thật chẳng ngại ngùng. Chính khi Chí Công nói đây là Quán Âm Đại sĩ truyền Phật tâm ấn, cũng nên đuổi y ra khỏi nước, vẫn còn so sánh chút ít.

Tương truyền Hòa thượng Chí Công tịch năm niên hiệu Thiên Giám thứ mười ba (514), Tổ Đạt-ma sang Trung Quốc niên hiệu Phổ Thông năm đầu (520) cách nhau sáu năm, tại sao lại nói đồng thời gặp nhau, đây ắt là sai. Cứ theo truyện chép, nay chẳng luận việc này, chỉ cần biết đại cương thôi. Vả lại nói Đạt-ma là Quán Âm, Chí CôngQuán Âm thì ai là Quán Âm thật, đã là Quán Âm sao lại có đến hai? Chẳng những có hai mà thành đoàn kết đội. Thời Hậu Ngụy, Luật sư Quang Thống, Tam Tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi cùng Tổ Đạt-ma luận nghị. Tổ bác tướng chỉ tâm, các vị vì lượng nhỏ hẹp, tự không kham nhận, dấy khởi tâm hại, nhiều lần để thuốc độc. Đến lần thứ sáu, do hóa duyên đã hết, đã được người truyền pháp, nên không cần cứu, Tổ ngồi ngay thẳng mà tịch, nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ tại chùa Định Lâm. Thời Hậu Ngụy, Tống Vân đi sứ đến núi Thông Lãnh gặp Tổ tay xách chiếc giày về Tây. Võ Đế nhớ lại tự làm văn bia: “Than ôi! Thấy đó chẳng thấy, gần đó chẳng gần, gặp đó chẳng gặp, kim ấy cổ ấy, oán ấy hận ấy.” Lại tán: “Tâm có vậy, nhiều kiếp mang thân phàm phu, tâm không vậy, trong khoảng sát-na liền lên Diệu giác.” Hãy nói Đạt-ma hiện nay ở đâu? Lầm qua rồi, chẳng biết.

TỤNG:

Thánh đế khoách nhiên 
Hà đương biện đích.
Đối trẫm giả thùy?
Hoàn vân bất thức.
Nhân tự ám độ giang
Khởi miễn sanh kinh cước.
Hạp quốc nhân truy bất tái lai
Thiên cổ vạn cổ không tương ức.
Hưu tương ức
Thanh phong tráp địa hữu hà cực.

DỊCH:

Thánh đế rỗng thênh
Làm sao biết trúng.
Đối trẫm là ai?
Lại bảo chẳng biết.
Nhân đây đêm sang sông
Há khỏi sanh gai góc.
Người cả nước mời chẳng trở về
Muôn đời ngàn đời nhớ nhau rỗng.
Thôi nhớ nhau
Gió mát khắp nơi nào có tột.

Sư xem bên trái bên phải bảo: Trong đây lại có Tổ sư chăng? Tự đáp: Có. Gọi đến cho Lão tăng rửa chân.

GIẢI TỤNG: Cứ theo lời tụng công án này của Tuyết Đậu giống như người giỏi múa kiếm Thái A, hươi trong hư không thênh thang mà không chạm đến lưỡi bén. Nếu người không có thủ đoạn này, vừa nắm đến liền chạm lưỡi đứt tay. Nếu là người có mắt sáng, thấy Sư một đưa ra một rút lại, một khen một chê, chỉ dùng bốn câu đủ quyết định một tắc công án. Phàm tụng cổ chỉ là “nhiễu lộ nói Thiền”, niêm cổ đại cương là “cứ khoản kết án” mà thôi. Tuyết Đậu vì kia lôi ra bổ thẳng vào đầu, liền nói: “Thánh đế rỗng thênh, làm sao biện trúng.” Tuyết Đậu kế câu ban đầu, hạ một câu này rất là kỳ đặc. Hãy nói cứu kính làm sao biện trúng? Dù cho mắt sắt tròng đồng dò tìm cũng chẳng được. Đến trong đây dùng tình thức suy đoán được chăng? Do đó Vân Môn nói: Như chọi đá nháng lửa, như làn điện chớp. Cái này không rơi vào tâm cơ, ý thức, tình tưởng, đợi ông mở miệng kham làm gì? Khi khởi so sánh thì chim điêu đã bay đến Tân La. Tuyết Đậu nói, Thiền tăng khắp nơi các ông làm sao biện trúng? “Đối trẫm là ai” liền hạ “lại bảo chẳng biết”. Đây là Tuyết Đậu rất mực từ bi vì người trùng lập. Vả nói “rỗng thênh” cùng “chẳng biết” là một loại hay hai thứ? Nếu là người đã liễu ngộ thì chẳng nói mà hiểu, người chưa liễu ngộ quyết định cho là hai. Chư phương tầm thường đều nói Tuyết Đậu một phen chỉ lại. Đâu chẳng biết chỉ bốn câu tụng đã tột công án. Sau vì lòng từ bi tụng ra sự tích “nhân đây đêm sang sông, há khỏi sanh gai góc”. Tổ Đạt-ma đến xứ này vì gỡ niêm mở trói, nhổ đinh tháo chốt, dẹp trừ gai góc, tại sao lại nói “sanh gai góc”? Chẳng những là người đương thời mà người đời nay gót chân vẫn còn lún sâu mấy trượng. “Người cả nước mời chẳng trở về, muôn đời ngàn đời nhớ nhau rỗng”, rất mực chẳng trượng phu. Hãy nói Đạt-ma ở chỗ nào? Nếu thấy Đạt-ma là thấy chỗ rốt sau vì người của Tuyết Đậu. Tuyết Đậu sợ e người chạy theo tình kiến, vì thế rút hẳn cây chốt cửa, bày kiến giải của chính mình, nói: “Thôi nhớ nhau, gió mát khắp nơi nào có tột.” Đã thôi nhớ nhau, việc dưới gót chân ông lại là gì? Tuyết Đậu nói chính nay gió mát khắp nơi, trên trời dưới trời chỗ nào thiếu. Tuyết Đậu nắm việc ngàn xưa muôn xưa ném đến trước mặt. Chẳng những Tuyết Đậu đương thời chỗ nào thiếu? Mà trên phần của các ông cũng chỗ nào thiếu? Sư lại sợ người chấp ở trong ấy, lại lập phương tiện, lớn tiếng bảo “trong đây lại có Tổ sư chăng”, tự đáp “có”. Tuyết Đậu ở trong ấy chẳng ngại vì người lòng son từng mảnh. Lại tự nói: “gọi đến rửa chân cho Lão tăng”, giảm tột uy quang người. Đương thời đã làm đầy đủ bổn phận. Thử nói ý Tuyết Đậu ở chỗ nào? Đến trong ấy gọi lừa cũng phải, gọi ngựa cũng phải, gọi là Tổ sư cũng phải, danh mạo thế nào? Người thường bảo rằng: Tuyết Đậu sai sử Tổ sư đi. Đáng tức cười không dính dáng. Nói xem, cứu kính thế nào? Chỉ cho lão Hồ biết, chẳng cho lão Hồ hiểu.

TẮC 2

TRIỆU CHÂU CHÍ ĐẠO VÔ NAN

LỜI DẪN: Càn khôn chật, mặt trời trăng sao đồng thời tối, dù cho gậy như mưa rơi, hét tựa sấm sét, cũng chưa đảm đương được việc hướng thượng trong Tông thừa. Giả sử chư Phật ba đời chỉ nên tự biết, lịch đại Tổ sư đồng đề chẳng lên, một Đại tạng kinh thuyên chú chẳng đến, Thiền tăng mắt sáng tự cứu chẳng xong, đến trong ấy làm sao thưa hỏi? Nói một chữ Phật đã phết bùn dính nước, nói một chữ Thiền đã hổ thẹn đầy mặt. Bậc Thượng sĩ cửu tham chẳng đợi ngôn thuyết, hàng hậu học sơ cơ cần phải nghiên cứu.

CÔNG ÁN: Triệu Châu dạy chúng: Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, vừa có ngữ ngôn là chọn lựa là minh bạch. Lão tăng không ở trong minh bạch, các người lại tiếc giữ cùng chăng? Có vị Tăng hỏi: Đã chẳng ở trong minh bạch thì tiếc giữ cái gì? Triệu Châu nói: Ta cũng chẳng biết. Tăng hỏi: Hòa thượng đã chẳng biết, vì sao nói chẳng ở trong minh bạch? Triệu Châu bảo: Hỏi việc thì được, lễ bái rồi lui.

GIẢI THÍCH: Hòa thượng Triệu Châu tầm thường cử thoại đầu này, chỉ tại “chỉ hiềm chọn lựa”. Chỗ này trong Tín Tâm Minh của Tam Tổ nói: “Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, chớ nên yêu ghét, rõ ràng minh bạch.” Vừa có phải quấy là chọn lựa là minh bạch, hiểu thế ấy là lầm qua rồi. Giảo đính giao niêm kham làm việc gì? Triệu Châu nói là chọn lựa là minh bạch. Người nay tham thiền hỏi đạo, chẳng ở trong chọn lựa là ngồi trong minh bạch. Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, các ông lại tiếc giữ hay không? Đã chẳng ở trong minh bạch hãy nói Triệu Châu ở chỗ nào? Vì sao lại bảo người tiếc giữ? Ngũ Tổ tiên sư thường nói: “Duỗi tay khỏi ông, ông làm sao hiểu?” Hãy nói thế nào là chỗ duỗi tay? Hiểu lấy ý đầu lưỡi câu, chớ nhận trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định). Câu hỏi của vị Tăng này quả là kỳ đặc, nắm Triệu Châu ở trong không liền tát, “đã chẳng ở trong minh bạch, tiếc giữ cái gì”? Triệu Châu lại chẳng dùng gậy dùng hét, chỉ nói “ta cũng chẳng biết”. Nếu chẳng phải lão này, bị vị Tăng tát trúng liền quên trước mất sau, nhờ lão có chỗ chuyển thân tự tại, sở dĩ đáp được như thế. Thiền tăng ngày nay có hỏi đến cũng nói “ta chẳng biết, chẳng hiểu”, đây là đồng đường mà khác lối. Vị Tăng này có chỗ kỳ đặc mới biết hỏi: “Hòa thượng đã chẳng biết, tại sao nói chẳng ở trong minh bạch?” Lại khéo tát một cái nữa. Nếu là kẻ khác thì quên hết đầu đuôi, Triệu Châu là bậc tác gia, chỉ nói với y: “Hỏi việc thì được, lễ bái rồi lui.” Vị Tăng này như trước không làm gì được lão ấy, chỉ đành nuốt hơi ngậm miệng. Đây là bậc Đại thủ Tông sư chẳng cho ông luận huyền, luận diệu, luận cơ, luận cảnh, một bề dùng việc bổn phận tiếp người. Vì thế nói đem mắng cho ông tiếp mồm, đem khạc nhổ cho ông tạt nước. Đâu không biết lão này bình sanh chẳng dùng gậy, hét tiếp người, chỉ dùng ngôn ngữ bình thườngmọi người không làm gì được. Bởi vì lão bình sanh không có nhiều tính toán, cho nên nắm ngang dùng ngược, thuận hạnh nghịch hạnh được đại tự tại. Người nay chẳng hiểu được, chỉ nói Triệu Châu không đáp lời hỏi, chẳng vì người nói, thế là trước mặt lầm qua.

TỤNG:

Chí đạo vô nan
Ngôn đoan ngữ đoan
Nhất hữu đa chủng
Nhị vô lưỡng ban
Thiên tế nhật thượng nguyệt hạ
Lam tiền sơn thâm thủy hàn
Độc lâu thức tận hỉ hà lập
Khô mộc long ngâm tỏa vị càn.
Nan nan
Giản trạch minh bạch quân tự khan.

DỊCH:

Chí đạo không khó
Lời đúng câu đúng
Một có nhiều thứ
Hai không hai ban
Bên trời, nhật trên nguyệt dưới
Trước lam, nước lạnh núi sâu
Đầu lâu thức hết hỉ nào lập
Cây khô trỗi nhạc xích (vòng xúc xích) chưa cùng.
Khó khó
Chọn lựa minh bạch anh tự xem.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu biết chỗ rơi của Lão, nên tụng “chí đạo không khó”, theo sau liền nói “lời đúng câu đúng”. Giở một góc ba góc đều theo. Tuyết Đậu nói: “một có nhiều thứ, hai không hai ban”, giống như ba góc trở lại một góc. Ông hãy nói chỗ nào là chỗ “lời đúng câu đúng”? Tại sao một lại có nhiều thứ, hai lại không hai ban? Nếu không có mắt sáng, nhằm chỗ nào dò tìm. Nếu thấu được hai câu này, cổ nhân nói đã thành một mảnh, như xưa thấy núi là núi, thấy nước là nước, dài là dài, ngắn là ngắn, trời là trời, đất là đất. Có khi gọi trời là đất, có khi gọi đất là trời, có khi gọi núi chẳng phải núi, nước chẳng phải nước. Cứu kính làm sao được chỗ bình ổn? Gió đến cây động, sóng nổi thuyền cao, xuân sanh hạ trưởng, thu thâu đông tàng. Một thứ tâm an lặng lẽ vắng bặt thì bốn câu tụng này hay tuyệt. Tuyết Đậu có thừa tài, cho nên phân chia, đúc kết, toán ra, chỉ là trên đầu để đầu, nói “chí đạo không khó, lời đúng câu đúng, một có nhiều thứ, hai không hai ban”. Tuy không cho nhiều việc, mà khi bên trời, trên là nhật thì dưới là nguyệt, khi trước lam núi sâu thì nước lạnh. Đến trong ấy lời cũng đúng, câu cũng đúng, mỗi mỗi đều là đạo, vật vật toàn chân, há chẳng phải chỗ tâm cảnh đều quên, làm thành một mảnh? Tuyết Đậu phần trước đội ngọn cô phong, phía sau ló đuôi chẳng ít. Nếu người tham được thấu, thấy được triệt, tự nhiên giống như thượng vị đề-hồ. Nếu người tình giải chưa quên liền thấy bảy hoa tám mảnh, quyết định không thể lãnh hội thoại đầu như thế.

Đến câu “đầu lâu thức hết hỉ nào lập, cây khô trỗi nhạc xích chưa cùng”, đây chỉ là chỗ qua lại thêm sáng tỏ, Tăng hỏi thế này, Triệu Châu đáp thế kia. Triệu Châu nói: Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, vừa có ngữ ngôn là chọn lựa là minh bạch. Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, các ông lại tiếc giữ hay không? Có vị Tăng ra hỏi: Đã chẳng ở trong minh bạch lại tiếc giữ cái gì? Triệu Châu đáp: Ta cũng chẳng biết. Tăng thưa: Hòa thượng đã chẳng biết, tại sao lại nói chẳng ở trong minh bạch? Triệu Châu bảo: Hỏi việc thì được, lễ bái rồi lui. Đây là Công án của người xưa hỏi đạo. Tuyết Đậu lôi ra quán xuyến tụng ra “chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa”. Người nay chẳng hội ý cổ nhân, chỉ quản nuốt lời nhai câu, biết bao giờ liễu ngộ. Nếu là hàng tác gia thông phương mới hay biện được lối nói này. Đâu không thấy Tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là đạo? Hương Nghiêm đáp: Trong cây khô trỗi nhạc. Tăng hỏi: Thế nào là nguời trong đạo? Hương Nghiêm đáp: Tròng con mắt trong đầu lâu. Sau vị Tăng đến hỏi Thạch Sương: Thế nào trong cây khô trỗi nhạc? Thạch Sương đáp: Vẫn còn kẹt hỉ. Tăng hỏi: Thế nào tròng con mắt trong đầu lâu? Thạch Sương đáp: Vẫn còn kẹt thức. Vị Tăng này lại đến hỏi Tào Sơn: Thế nào trong cây khô trỗi nhạc? Tào Sơn đáp: Huyết mạch chẳng dứt. Tăng hỏi: Thế nào là tròng con mắt trong đầu lâu? Tào Sơn đáp: Khô chẳng hết. Tăng hỏi: Người nào được nghe? Tào Sơn đáp: Khắp đại địa mọi người đều nghe. Tăng hỏi: Chương cú gì? Tào Sơn đáp: Người nghe đều tan. Tào Sơn làm tụng:

TỤNG:

Khô mộc long ngâm chân kiến đạo
Độc lâu vô thức nhãn sơ minh
Hỉ thức tận thời tiêu tức tận
Đương nhân na biện trọc trung thanh.

DỊCH:

Cây khô trỗi nhạc thật thấy đạo
Đầu lâu không thức nhãn vừa minh
Hỉ thức hết rồi tin tức hết
Người đời nào biện đục trong trong.

Tuyết Đậu quả là tay cự phách, một lúc vì ông qua lại tụng ra. Tuy nhiên như thế trọn không có hai thứ.

Rốt sau Tuyết Đậu có chỗ vì người lại nói: “khó khó”. Chỉ hai chữ khó này cũng cần thấu qua mới được. Tại sao? Bá Trượng nói: “Tất cả ngữ ngôn, núi sông, quả đất mỗi mỗi đều phải xoay về nơi mình.” Tuyết Đậu tung ra rút lại, cuối cùng phải trở về chính mình. Hãy nói, chỗ nào là chỗ Tuyết Đậu vì ngýời? “Chọn lựa minh bạch anh tự xem.” Đã là làm sắn bìm, tại sao tụng rồi lại nói “anh tự xem”? Khéo bày vẽ dạy ông tự xem. Thử nói, ý rơi tại chỗ nào? Chớ bảo mọi người lý hội chẳng được, giả sử Sơn tăng đến trong ấy cũng chỉ là lý hội chẳng được.

TẮC 3

MÃ TỔ MẶT TRỜI PHẬT MẶT TRĂNG PHẬT

LỜI DẪN: Một cơ một cảnh một lời một câu vẫn mong có chỗ vào. Trên da thịt lành khoét thành thương tích thành ổ thành hang, đại dụng hiện tiền chẳng còn phép tắc, lại mong biết có việc hướng thượng. Che trời che đất lại dò tìm chẳng được. Thế ấy cũng được, chẳng thế ấy cũng được, thật bé nhỏ thay! Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, rất cao vót thay! Chẳng kẹt hai bên làm sao mới phải, xin cử xem?

CÔNG ÁN: Mã Tổ bệnh, Viện chủ đến thăm, hỏi: Gần đây thân thể Hòa thượng thế nào? Mã Tổ đáp: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.

GIẢI THÍCH: Mã Tổ bệnh, Viện chủ đến thăm, hỏi: Gần đây thân thể Hòa thượng thế nào? Mã Tổ đáp: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật. Bậc Tổ sư nếu chẳng lấy việc bổn phận thấy nhau thì làm sao đạo này được chói lọi. Công án này nếu biết chỗ rơi là riêng bước trong không, nếu chẳng biết chỗ rơi thì thường thấy cây khô trước núi vẫn còn lầm đường. Nếu là bổn phận Tông sư, đến trong đây phải có thủ đoạn cướp trâu của người cày, đoạt cơm của người đói, mới thấy chỗ vì người của Mã Tổ. Hiện nay có nhiều người nói Mã Tổ tiếp Viện chủ, nực cười không dính dáng. Nay ở trong chúng phần nhiều hiểu lầm, trừng mắt nói: Mắt trái là mặt trời, mắt phải là mặt trăng. Thật có dính dáng chút nào, đến năm lừa cũng chưa mộng thấy, chỉ làm sai lầm việc cổ nhân. Đến như Mã Tổ nói thế ấy, ý tại chỗ nào? Có người nói: “Rót cho một chén thuốc đau bụng.” Có lỗ mũi gì? Đến trong đây làm sao được bình ổn? Sở dĩ nói con đường hướng thượng ngàn Thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình như khỉ bắt bóng. Chỉ câu “mặt trời Phật, mặt trăng Phật”, rất là khó thấy. Tuyết Đậu đến đây cũng khó tụng, song vì thấy thấu, nên Sư dùng hết công phu trong lúc bình sanh chỉ chú ra. Các ông cần thấy Tuyết Đậu chăng? Xem lấy văn sau:

TỤNG:

Nhật diện Phật, nguyệt diện Phật
Ngũ đế, Tam hoàng
(1) thị hà vật?
Nhị thập niên lai tằng khổ tân
Vị quân ký hạ thương long huyệt.
Khuất, kham thuật
Minh nhãn Nạp tăng mạc khinh hốt.

DỊCH:

Mặt trời Phật, mặt trăng Phật
Ngũ đế, Tam hoàng là vật gì?
Hai mươi năm lại từng cay đắng
Vì anh bao phen xuống hang rồng.
Cúi, cam nói
Thiền tăng mắt sáng chớ xem thường.

GIẢI TỤNG: Thời vua Tống Thần Tông ở ngôi, tự bảo bài tụng này là nói mát quốc gia, nên không cho đem vào Tạng kinh. Tuyết Đậu trước niêm rằng: “mặt trời Phật, mặt trăng Phật”, lại nói: “Ngũ đế, Tam hoàng là vật gì”, hãy nói ý Tuyết Đậu thế nào? Chính đã nói rồi vậy. Liền đó chú ra lý do, thả câu bốn biển chỉ câu rồng to, một câu này đã rõ. Phần sau. Tuyết Đậu tự tụng ra lý do bình sanh dụng tâm tham tầm, “hai mươi năm lại từng cay đắng, vì anh bao phen xuống hang rồng”. Giống cái gì? Giống như người vào hang rồng lấy hạt châu. Sau lại đập phá thùng sơn, sẽ bảo có bao nhiêu kỳ đặc? Trước sau chỉ tiêu được câu “Ngũ đế, Tam hoàng là vật gì”. Hãy nói lời Tuyết Đậu rơi tại chỗ nào? Phải tự lui lại xem mới thấy chỗ Sư rơi. Há chẳng thấy Thị giả Hưng Dương Phẩu đáp Viễn Lục Công hỏi: Rồng Ta-kiệt ra khỏi biển càn khôn động, thấy mặt trình nhau việc thế nào? Hưng Dương Phẩu đáp: Chim chúa cánh vàng kình vũ trụ, trong đây ai là người xuất đầu? Viễn Công hỏi: Bỗng gặp xuất đầu lại làm sao? Phẩu đáp: Giống như chim cáp bắt chim cưu, anh không tin, trước đầu lâu nghiệm mới biết thật. Viễn Công nói: Thế ấy thì cúi mình bày ngực, thối thân ba bước. Phẩu đáp: Rùa đen dưới tòa Tu-di núp, chớ đợi gõ đầu mới thối lui. Đây là lý do “Ngũ đế, Tam hoàng là vật gì”. Người ta phần nhiều không thấy ý Tuyết Đậu, chỉ biết nói mát quốc gia. Nếu hiểu thế ấy chỉ là tình kiến. Ngài Thiền Nguyệt với tựa đề Công Tử Hạnh nói: “Áo gấm hoa tươi tay cầm cáp, nhàn đi dáng mạo càng thư thả, gặt lúa gian nan có biết chi, Ngũ đế Tam hoàng là vật gì?” Tuyết Đậu nói: “Cúi, cam nói, Thiền tăng mắt sáng chớ xem thường.” Đa số người nhằm trong hang rồng to tìm kế sống. Dù cho trên đảnh có mắt, trong tay có linh phù, Thiền tăng mắt sáng soi khắp tứ thiên hạ, đến trong ấy cũng chớ xem thường, cần phải chín chắn mới được.


(1) Ngũ đế: Thái Hiệu, Hoàng Đế, Thần Nông, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc; hoặc là Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

Tam hoàng: Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhân hoàng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11531)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10609)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10872)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9970)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9633)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12990)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13423)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13574)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19941)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12618)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13340)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13636)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13134)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12461)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18653)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10767)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12490)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11101)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11290)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14779)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22789)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11668)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10248)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34693)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17864)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32849)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22234)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11300)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17720)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17273)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10774)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10929)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9670)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10683)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10668)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10648)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12547)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12494)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 10058)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13315)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9799)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9193)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11920)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13566)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12146)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11377)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11676)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10430)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10337)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10989)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28345)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10932)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7504)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9415)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11861)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11760)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11187)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10408)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10346)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13901)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 15135)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10593)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 12000)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10977)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10601)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10752)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9976)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10749)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9409)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10077)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10274)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10618)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10700)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10618)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10185)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9897)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13628)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16439)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13579)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11633)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11225)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11201)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12299)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15495)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10724)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11775)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10698)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11165)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10089)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10507)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11515)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11083)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 13030)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24555)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12686)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10375)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28859)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19461)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 11039)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23532)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant